Đi đôi với việc thêm vào những từ biệt loại hết sức chính xác đối với từng danh từ như trên, nghiên cứu bản dịch Nôm hiện hành, chúng tôi còn thấy một hiện tượng đáng chú ý khác. Đó là người dịch đã cụ thể hoá hay thông tục hoá những từ ngữ mang điển cố hết sức cầu kỳ khó hiểu của nguyên tác bằng cách thêm vào trước nó những từ mang tính biệt loại như: “Sự” thêm vào trước danh từ “Phục ba” để dịch từ “Mã Viện”, “Cành”, “đoá” vào trước danh từ “Diêu”, “Nguỵ” để dịch từ “Diêu hoàng, Nguỵ tử” của tiếng Hán.
Ở đây, sự khiến người đọc dễ liên tưởng tới một sự trạng ít nhiều có tổ chức, có diễn biến, có kết thúc; còn “cành” và “đoá” khiến người đọc nghĩ ngay đây là những danh từ chung chỉ loài thực vật và các loài hoa, khác nào như “cành mẫu đơn”, “đoá hoa”...
Có thể nói đây là một hình thức Việt hoá các từ Hán mang điển cố của dịch phẩm thật là đặc sắc. Điều này không thấy có trong các bản dịch khác.
b) Dạng đổi và dạng lược.
Theo thống kê, tỷ số đổi và lược ở các bản dịch tương đối ngang nhau:
Bản A: 34,8%; Bản B: 31,01%; Bản C: 39,17%; Bản D: 42,45%.
Nhưng sở dĩ bản A, chất lượng cao hơn cả ba bản Nôm còn lại là vì bản này đã đi theo hướng mà các bản dịch khác (B.C.D) chưa làm được, hoặc làm được nhưng chưa đầy đủ. Hướng đó là: dịch phẩm luôn luôn bám sát phong cách diễn đạt của tiếng Việt, không lệ thuộc vào hình thức biểu đạt của nguyên tác Hán văn (mặc dầu ở đây nguyên tác cũng đã được Việt hoá). Dịch phẩm sẵn sàng chuyển đổi hoặc gạt hẳn những yếu tố ngoại lai khiến cho văn bản Nôm tuy là văn bản dịch mà nhiều người có cảm giác như văn làm (Hoàng Xuân Hãn). và sau đây là những hướng đi cụ thể đó:
- Từ ngữ Hán Việt sang Nôm phải đổi khác đi do những từ ngữ đó phản ánh tổ chức đời sống xã hội Hán khác Việt. Ví dụ:
Tỉnh ấp chuyển sang Nôm là nhà thôn. Ở đây danh từ không phải ở dạng nguyên như trên mà người dịch đã chuyển nghĩa theo tinh thần của nội dung từ ngữ đó. Theo các nhà nghiên cứu Hán ngữ thì tỉnh có nghĩa là giếng, ấp có nghĩa là làng xóm. Riêng chữ tỉnh cũng có nghĩa là làng xóm. Theo phép của chế độ nhà Chu xưa, mỗi một dặm đất vuông vạch theo chữ “tỉnh” làm 9 phần, mỗi phần trăm mẫu, chia cho 8 nhà (làng xóm) còn phần chính giữa là của công. Tám nhà chung sức làm phần thứ 9 ở giữa là công điền khỏi nạp thuế. Vì vậy gọi là tỉnh điền, tỉnh ấp. Cách tổ chức đó hoàn toàn khác với xóm thôn Việt Nam. Vì vậy dịch phẩm Nôm hiện hành đổi tỉnh ấ sang nhà thôn (Nhà thôn gió bụi chông chênh) là hoàn toàn phù hợp với cách nghĩ của người Việt Nam. Các bản nôm khác bỏ qua không dịch, theo ý chúng tôi có lẽ đây là một danh từ xem ra cũng khó chuyển đạt, bởi người dịch các bản Nôm B, C, D đã bị vướng về ấn tượng tổ chức xã hội Hán như đã trình bày.
Quắc: có nghĩa là cái tai bị cắt rời ra. Theo tập tục của người Hán, giết giặc cắt lấy tai trái đem về nộp lấy công là yêu cầu không thể thiếu đối với người lính khi tính công. Vậy quắc ở đây vừa có nghĩa là tai trái vừa có nghĩa là công. Bản Nôm hiện hành đã không bị lệ thuộc vào tập quán hiển hiện của từ đó mà đã dịch thành từ công (Triều thiên vào trước cung đình dâng công), trong khi đó các bản dịch khác vẫn bị ấn tượng về từ “quắc” khống chế.
Bản B dịch: “Dâng đầu Hiệt lợi chín trùng Vị ương”
Bản C dịch: “Cung Ương hiến quắc, rạng nhờ khen không”
Bản D dịch: “Cung Vị ương mấy quắc đem tâu”.
Thanh ty kỵ, hưởng điệp lang: (Ngựa thanh ty, Hiên hưởng điệp) trong câu: Quân biên vân ủng thang ty kỵ, Thiếp xứ đài sinh hưởng điệp lang.
Ngựa thanh ty vốn là thứ ngựa quý, buộc tơ xanh ở đuôi, chuyên dùng cho tướng tá cưỡi (Lại Ngọc Cang: CPNKT và GT. Tr. 375).
Hiên hưởng điệp: Vua Ngô Phù Sai cho người đào đất, bắc gỗ làm sàn cho Tây Thi đi lên trên để có tiếng vang nên gọi là “hưởng điệp lang”.
Bản dịch Nôm hiện hành đã đổi hai nhóm từ trên thành ngựa (thay cho từ “thanh ty kỵ”) và lối cũ (thay cho “hưởng điệp lang”):
Chàng dong ngựa dặm đường mây phủ
Thiếp dạo hùi lối cũ rêu in.
Trong khi đó bản B dịch: “ngựa”, “thềm hoa”.
Chàng chốn nà o ngựa len mây nổi
Chốn thiếp ngồi rêu nổi thềm hoa.
Bản C dịch: “Hàng kỵ”, “chái”:
Chốn chàng đi mây chen hàng kỵ
Chốn thiếp ngồi, chái để những rêu.
Bản D dịch: “quân kỵ”, “hưởng điệp”
Mây tuôn quân kỵ theo chàng
Rêu lang hưởng điệp là làng thiếp nương.
So sánh như thế, chúng tôi thấy bản Nôm hiện hành đã dựa hẳn vào tinh thần nội dung nguyên tác để dịch, không hề bị lệ thuộc máy móc vào các từ ngữ Hán cụ thể. Nhờ đó câu thơ dẽ trở nên thanh thoát bóng bẩy.
- Những từ ngữ Hán phải đổi hay phải lược đi vì phong cách diễn đạt ngôn ngữ Hán khác phong cách diễn đạt của ngôn ngữ Việt.
+ Tỉnh lược chủ ngữ
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt, dịch là:
“Phép công là trọng niềm tây sá nào”, hành nhân ở đây bị lược bỏ.
Cẩm trướng quân vương tri dã vô, dịch là:
“Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ”, quân vương bị lược.
+ Tính khái quát thay thế tính cụ thể quá chi tiết của Hán. Ví dụ:
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
(Chàng hai mươi tuổi dòng hào kiệt họ Ngô).
Bản A dịch là:
“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt”.
Ở đây, tuổi 20, dòng họ Ngô đã bị thay thế bằng tuổi trẻ và hào kiệt.
Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn
(Tiếng hát lạc mai nghe xa dần).
Bản A dịch là:
“Tiếng địch trỗi nghe chừng đồng vọng”.
Lạc mai là một khúc nhạc cụ thể đã bị thay thế bằng tiếng địch.
Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng,
(Nơi thiếp trở về là phòng đêm qua).
Bản A dịch:
“Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn”.
Buồng đêm qua bị thay bằng buồng cũ chiếu chăn...
Tóm lại, những từ ngữ Nôm trong bản dịch hiện hành đã phản ảnh cuộc sống văn hoá, cách suy nghĩ của người Việt luôn hướng theo thói quen dân tộc như trên đã trình bày. Bởi vậy, từng chữ từng câu trong dịch phẩm là những viên ngọc quý đậm đà sắc thái tâm hồn của người Việt. Những câu thơ đó không hề bị gò bó, không hề sa vào những chi tiết vụn vặt cầu kỳ. Đọc thơ Chinh phụ ngâm sở dĩ người đọc cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái chính là vì vậy.
CHÚ THÍCH
(1) Nguyên tác Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã được nhiều người dịch ra Nôm. ở đây chúng tôi căn cứ vào 4 bản đã được Hoàng Xuân Hãn cho công bố để khảo sát. Xem: Chinh phụ ngâm bị khảo, Nxb Minh Tân. Paris, 1953.
http://www.hannom.org.vn/web/tchn/data/8601.htm
|