NGUYỄN DANH ĐẠT Nói đến văn bản dịch Chinh phụ ngâm hiện hành hẳn mọi người dễ thừa nhận rằng đây là một kỳ công, nó không chỉ phản ánh rèn luyện gian khổ để đạt đến trình độ nghệ thuật xuất sắc cuả cá nhân người dịch mà còn phản ánh cả trình độ ngôn ngữ và văn học của dân tộc ta trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Để làm sáng rõ, trong phạm vi bài này, chúng tôi xin phép được khảo sát riêng về cách dịch danh từ mà theo ý chúng tôi, đã tập trung được những nét đặc sắc của bản dịch. Trước hết cách làm của chúng tôi là thống kê phân loại những danh từ có trong nguyên tác rồi đem so sánh với những từ ngữ chuyển đổi tương ứng trong các bản dịch khác nhau(1). Sau đó mới phân tích tìm nguyên nhân của những trường hợp chuyển dịch. Để có thể tiến hành được, dựa theo ý nghĩa và mô hình câu Hán văn của từng đơn vị từ ngữ đã được bản Nôm chuyển đổi, chúng tôi tạm thời chia ra làm ba loại chính theo ba hạng sau đây: a) Dạng nguyên: là dạng gồm những từ ngữ: - Nguyên cấu trúc là âm đọc Hán Việt. Ví dụ: Hịch, nguyệt. - Cấu trúc và âm đọc đã chuyển sang Việt. Ví dụ: Bán dạ: nửa đêm. - Cấu trúc và âm đọc đã chuyển sang Việt, trong đó đã có thêm hoặc bớt đi một số yếu tố do đặc trưng ngôn ngữ Việt quyết định. Ví dụ: Hồng nhan: Khách má hồng(thêm: “khách”). Hàm Dương: chốn Hàm Dương (thêm: “chốn”). Kỳ Lân đài: Đài Lân (bớt: “kỳ”). b) Dạng đổi: Những loại này có nguyên nhân là do đặc trưng giữa hai ngôn ngữ khác nhau hoặc là do văn cảnh và cách lĩnh hội nội dung nguyên tác khác nhau của người dịch, cho nên những từ ngữ Hán Việt trong nguyên tác không đi theo hướng như trên mà được chuyển sang một dạng khác với mục đích là miêu tả nội dung ý nghĩa của từ ngữ nguyên tác. Ví dụ: Long tuyền(nguyên là tên riêng của một thanh gươm quý) dịch là “gươm” Tạc dạ phòng (nguyên nghĩa là: phòng đêm qua) dịch là “buồng cũ chiếu chăn”. c) Dạng lược: Đó là những từ ngữ có trong nguyên tác nhưng khi đối chiếu với bản dịch Nôm, chúng tôi không thấy có sự hiện diện của những từ Nôm tương ứng mà được hàm ẩn dưới những dạng khác nhau trong câu thơ Nôm. Ví dụ: “vân hoàn mấn” trong câu “vị quân sơ truất vân hoàn mấn(xin vì chàng mà chải chuốt mái tóc mây), ” nhưng tác phẩm lại dịch là: “xin vì chàng rũ lớp phong sương”. Ở đây, cụm danh từ “mớ tóc mây” đã ẩn cả vào trong câu thơ trên. Trường hợp này chúng tôi xếp vào loại không địch và gọi là dạng lược. Trên cơ sở như vậy, chúng tôi tập trung khảo sát 603 danh từ có trong tác phẩm theo 3 dạng đã trình bày. Sau đây là kết quả cụ thể: 1. Kết quả chung khi so sánh với các bản dịch khác. Căn cứ vào nguyên tắc phân chia trên, sau khi khảo sát 603 danh từ Hán Việt có trong nguyên tắc, so sánh với cả 4 bản dịch(chúng tôi gọi bản dịch hiện hành là bản A, các bản khác là B, C, D) chúng tôi thấy tình hình diễn ra như sau: Qua bản tổng hợp trên, chúng tôi thấy tình hình chung cả 4 bản dịch đều có sự tương đương về phương thức chuyển hoá danh từ: dạng nguyên trên dưới 60 %; dạng đổi trên dưới 20%; dạng lược cũng vậy, khoảng trên dưới 20%. Tình hình đó cho thấy mức độ nhận thức đối với nội dung nguyên tác của các bản dịch cũng đã đi sát nhau tương đối. Cả 4 bản dịch đều thể hiện rõ khả năng chuyển hoá danh từ Hán Việt sang Nôm là rất phong phú và đa dạng. Đọc tất cả các bản dịch, mọi người dễ nhận thấy sự diễn biến và mức độ phát triển mạnh mẽ của tiếng Việt. Đặc biệt ở bản dịch hiện hành, với mức độ Việt hoá cao của nó, từng chữ, từng câu, đã trở thành những viên ngọc quý tiêu biểu cho ngôn ngữ đẹp đẽ, trong sáng của văn chương Việt Nam. 2. Riêng đối với bản Nôm hiện hành: Tuy vậy, vấn đề không phải là số lượng mà là chất lượng.Đến đây một câu hỏi đặt ra và cần được giải đáp, đó là bản dịch hiện hành đã đi theo hướng như thế nào mà đạt được trình độ cao về nghệ thuật như thế”. Dựa vào tài liệu thống kê được, ở đây chúng tôi cũng sẽ phân tích và bình luận về ba dạng khác nhau của việc chuyển dịch từ Hán Việt sang Nôm như sau: |
TT | Các bản dịch Nôm | Dạng nguyên | Dạng đổi | Dạng lược | |||||||||
1 | 2 | 3 | Tổng số | ||||||||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | ||
1 | A | 54 | 8 | 118 | 31 | 151 | 25 | 393 | 65,17 | 09 | 15,42 | 117 | 19,40 |
2 | B | 66 | 10 | 213 | 35 | 137 | 22 | 416 | 68,19 | 115 | 19,07 | 72 | 11,94 |
3 | C | 55 | 9 | 181 | 30 | 131 | 21 | 367 | 60,93 | 121 | 20,1 | 115 | 19,07 |
4 | D | 48 | 7 | 204 | 33 | 95 | 15 | 347 | 57,54 | 132 | 21,89 | 124 | 20,56 |
TT | Danh từ Hán | Bản Nôm A dịch | Cách dịch của các bản Nôm khác |
1 | Vũ thần | Quan võ | B: kẻ vũ thần |
2 | Thê noa | Thê noa | B: tình duyên C: nỗi vợ con D: tình thất gia |
3 | Oán | Oán | B: Giận thiết tha C: Giận |
4 | Trượng phu chí | Chí làm trai | B: Trượng phu |
5 | Mã cách | Da ngựa | B: Mã cách |
Bản B: | Trời đất thủa gió bay bụi nổi Khách hồng nhan nhiều nỗi truân chuyên Kìa thăm thẳm nhẽ thương nhiên Uẩy ai gây dựng nhân duyên lỡ làng? |
Bản C: | Nào trời đất nổi cơn gió bụi Kẻ hồng nhan nhiêu nỗi gian truân Kìa xanh thăm thẳm mấy lần Duyên này ai khéo xây vần cho nên? |
Bản D: | Trên trời đưới đất bụi bay Má hồng phận bạc đắng cay nhiều bề Vòi vọi kia ngõ hay chẳng tả ấy vì ai tạo hoá nhân duyên? |
TT | Nguyên tác viết | Bản dịch A | Bản dịch B |
1 | Nhất nhung yên | Một cỗ nhung yên | Một chiếc nhung yên |
2 | Công danh | Áng công danh | Hội công danh |
3 | Sơ song | Bức rèm thưa | Chiếc song thưa |
4 | Lộ nhất quần | Một đàn cò | Một lũ cò (Bản B) |