3. Tiếp nhận trong lĩnh vực giáo dục
Việc giảng dạy văn học Nhật Bản trong các nhà trường Việt Nam cũng bắt đầu muộn hơn so với các nền văn học khác. Văn học Trung Quốc, Nga, Pháp được đưa vào giảng dạy khoảng từ thập niên 50 của thế kỉ XX. Trong khi đó, phải đến những năm 70, 80 của thế kỉ XX, văn học Nhật cũng như Mĩ, Đức mới được đưa vào nhà trường. Văn học các nước châu Á nói chung và văn học Nhật Bản nói riêng được giảng dạy với số lượng hết sức khiêm tốn và không ổn định nếu so với văn học châu Âu.
Chương trình phổ thông cũ giới thiệu hai tác phẩm là truyện cổ tích Nàng tiên có bộ áo chim công ở bậc THCS và truyện Thuỷ nguyệt của Kawabata ở bậc THPT. Sau cải cách, truyện Nàng tiên có bộ áo chim công được đưa ra khỏi chương trình, còn thơ haiku của Matsuo Basho được giảng dạy ở lớp 10. Thuỷ nguyệt trở thành tác phẩm đọc thêm ở lớp 12.
Ở các trường đại học và cao đẳng, văn học Nhật Bản được giảng dạy cùng với văn học Trung Quốc, Ấn Độ, Đông Nam Á. Tuỳ trường, tuỳ ngành học, văn học Nhật Bản được giảng dạy riêng (Khoa Nhật Bản học, ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội; Khoa Tiếng Nhật, Đại học Ngoại thương; Khoa Ngôn ngữ Nhật Bản, Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN…) hoặc giảng dạy như một phần của môn Văn học Châu Á (Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh…). Thời lượng dành cho môn Văn học Châu Á dao động từ 45 đến 60, 75 tiết, tương đương với 3,4 hoặc 5 tín chỉ. Riêng ở Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, Toàn bộ Văn học Châu Á chỉ được giảng dạy trong 45 tiết (3 tín chỉ), nên thời lượng dành cho văn học Nhật Bản là rất ít, khoảng 9 tiết. Với thời gian ít ỏi đó, văn học Nhật Bản chỉ có thể được giới thiệu sơ lược các thời kì, sau đó tập trung vào thơ haiku là hình thức thơ được giảng dạy ở chương trình phổ thông, nhằm giúp các sinh viên sau này ra trường có thể giảng dạy tốt thể thơ này. Những tác gia cận hiện đại như Akutagawa Ryusunoke hay Kawabata Yasunari… chỉ có thể được tìm hiểu thông qua thời gian làm bài tập niên luận, khoá luận tốt nghiệp, báo cáo khoa học hoặc luận văn thạc sĩ và cũng chỉ giới hạn trong một số lượng sinh viên, học viên cao học hạn chế.
Cũng ở bậc cao học thuộc Khoa Ngữ Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, văn học Nhật Bản cùng với Ấn Độ chỉ có một chuyên đề tự chọn 45 tiết cho một số ít học viên học theo học chuyên ngành phương Đông. Chúng tôi chọn chuyên đề Những mối quan hệ giữa tôn giáo - triết học và văn học Ấn Độ, Nhật Bản. Lí do chọn là vì đề tài này giúp học viên tiếp cận được cốt tuỷ tinh thần của văn học các nước phương Đông là chịu ảnh hưởng sâu đậm của tôn giáo - triết học. Riêng phần văn học Nhật Bản, chúng tôi chọn giới thiệu ảnh hưởng của Thiền tới thơ haiku.
Ở bậc đào tạo tiến sĩ, từ năm học 2015 – 2016 trở về trước, văn học Nhật Bản cũng như Ấn Độ không có trong chương trình đào tạo do không có mã ngành. Hai năm trở lại đây, từ năm học 2016 – 2017, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội mở mã ngành Văn học Nước ngoài, Mã số 62.22.02.45; nay đổi thành 9220242.
Như vậy, văn học Châu Á nói chung và văn học Nhật Bản nói riêng chưa được chú trọng trong chương trình giáo dục và đào tạo của các nhà trường tương xứng với vai trò, ảnh hưởng của nó đối với đời sống văn hoá, văn học Việt Nam. Trong tương lại, chúng tôi mong muốn văn học châu Á nói chung và văn học Nhật Bản nói riêng được chú ý dành cho dung lượng lớn hơn ở tất cả các cấp học. Đội ngũ giảng viên giảng dạy văn học Nhật Bản tại các trường đại học cũng cần có sự phối hợp, liên kết trong đào tạo, nhất là ở các cấp sau đại học để có một chương trình thống nhất, đồng bộ, tránh trùng lặp về đề tài luận văn, luận án, khoá luận, chuyên đề giảng dạy…
4. Tiếp nhận trong lĩnh vực sáng tác
Tác phẩm đầu tiên của Việt Nam học tập sáng tác văn học Nhật Bản dưới hình thức phóng tác là Giai nhân kì ngộ của cụ Phan Chu Trinh, được chuyển thể từ Giai nhân chi kì ngộ của nhà văn Sài Tứ Lang qua bản dịch của Lương Khải Siêu ngay từ những thập kỉ đầu tiên của thế kỉ trước.
Tiếp theo, việc tiếp nhận văn học Nhật Bản trong sáng tác phải kể đến thể loại thơ haiku. Thơ haiku Nhật Bản đã du nhập vào Việt Nam và được các nhà thơ Việt Nam học tập để sáng tác từ khoảng từ thập niên 60 - 70 thế kỉ trước. Trong phạm vi khảo sát còn giới hạn, chúng tôi nhận thấy nhà thơ Chế Lan Viên có những bài thơ học tập hình thức haiku Nhật Bản từ rất sớm:
Anh chỉ còn là nắm tro xương trong bình (9 âm tiết)
Em ơi em đừng khóc (5 âm tiết)
Ngoài vườn hoa cỏ mọc (5 âm tiết).
Bài thơ bao gồm 19 âm tiết, phù hợp với số lượng âm tiết của một bài haiku cổ điển 5/7/5 hoặc 5/9/5. Về nội dung, bài thơ nêu lên triết lí vô thường của cuộc sống cũng như mỗi quan hệ chuyển hóa kì diệu của sự sống. Đó chính là một triết lí sâu sắc của Thiền tông được tiếp thu từ Lão Trang mà haiku hay biểu đạt.
Sau này, phong trào haiku đã phát triển ở Việt Nam. Câu lạc bộ haiku Thành phố Hồ Chí Minh do PGS Lưu Đức Trung thành lập năm 2007, Câu lạc bộ haiku Hà Nội thành lập sau đó hai năm. Các câu lạc bộ này quy tụ nhiều thành viên trên khắp các tỉnh thành trong cả nước. Mỗi câu lạc bộ lại có nội san riêng ra hàng năm. Nhiều thành viên trong câu lạc bộ ra tuyển tập riêng và có cả những tuyển tập chung. Ngoài ra còn có những cá nhân khác cũng tham gia sáng tác.
Từ năm 2007, Tổng lãnh sự quán Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh kết hợp với Báo Tuổi Trẻ đã định kì 2 năm 1 lần tổ chức cuộc thi thơ haiku tiếng Việt và haiku tiếng Nhật cho người Việt và người nước ngoài ở Việt Nam tham dự. Các cuộc thi này rất hào hứng có tác dụng lớn trong việc phổ biến và thúc đẩy phong trào sáng tác thơ haiku ở Việt Nam. Đồng thời hàng năm tại thành phố Hội An có sự kiện Văn Hóa Hữu Nghị Hội An - Nhật Bản mở cuộc thi thơ Haiku Việt từ 2012. Hai năm gần đây, Đại sứ quán Nhật Bản ở Việt Nam, Japan Airlies và quỹ Japan Foundation tổ chức cuộc thi sáng tác thơ haiku cho học sinh THCS. Các em tham gia rất đông và thơ của các em được Ban Tổ chức đánh giá cao.
Thơ haiku do người Việt sáng tác có một số đặc điểm sau.
Haiku Việt cũng viết về đề tài thiên nhiên nhưng là thiên nhiên thuần Việt. Bên cạnh đó, haiku Việt cũng viết về những để tài khác như thế sự, tình yêu, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước. Không nhất thiết phải có quý ngữ (kigo). Nếu có, thường gián tiếp.
Haiku Việt không có đầu đề, không nhất thiết có quý ngữ (kigo). Một câu chia thành 3 dòng.
Không áp dụng cấu trúc 5-7-5 âm tiết như haiku Nhật Bản. Nếu máy móc sáng tác theo 5-7-5 thì câu thơ sẽ rất dài, triệt tiêu mất đặc thù cực ngắn, cô đọng của haiku truyền thống Nhật. Thơ haiku Việt rất linh động trong số lượng từ tùy từng bài và dao động trong phạm vi 5 đến 14 từ.
Haiku Việt cũng chú trọng đến vần điệu, có thể dùng vần chân: hai dòng bắt vần với nhau hoặc dùng vần lưng.
Thơ haiku Việt ca hát về vẻ đẹp Việt Nam, về cái đẹp của thiên nhiên gấm vóc, của những thuần phong mĩ tục, của tâm hồn, tính cách con người Việt Nam ngay thẳng, bình dị mà cao quý vô ngần. Và như vậy, “haiku Việt ôm choàng cuộc sống trong mọi nẻo đời. Ở đây và bây giờ” (Nhật Chiêu – Nắng mới lên từ thơ haiku). Những âm giai Nhật Bản và tâm hồn lục bát Việt Nam hòa quyện tạo thành một bản “hòa âm” mới “đa thanh”, đem đến cho con người tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đất nước mình.
Haiku Việt chủ yếu học tập thơ haiku Nhật hiện đại đã được cách tân từ thời kì Minh Trị nên tự do, cởi mở hơn so với haiku truyền thống. Haiku Việt đã phần nào thể hiện được vẻ đẹp Việt Nam như chúng tôi đã phân tích. Tuy nhiên, cho đến nay, nó chưa thực sự được công nhận như một thể thơ chính thức trong nền văn học Việt Nam. Mặt khác, nhiều nhà nghiên cứu cũng chưa thỏa mãn rằng những sáng tác đó đúng là thơ haiku. Về nguyên nhân, có thể thấy rõ trước hết là những người sáng tác haiku đều không phải là những nhà thơ, càng không phải là những haijin tức người chuyên sáng tác haiku. Họ là những trí thức thuộc các ngành nghề khác nhau, vì say mê mà sáng tác. Họ cũng không am hiểu nhiều về haiku Nhật Bản. Chủ yếu họ sáng tác theo cảm hứng, không tuân thủ theo luật thơ haiku một cách chặt chẽ. Có thể quảng bá sâu rộng hơn những đặc điểm của haiku Nhật Bản để bồi dưỡng thêm kiến thức cho những người say mê haiku để họ sáng tác đúng hơn theo hình thức thơ haiku. Ở Nhật có sách dạy sáng tác haiku cho người lớn và trẻ em, chúng ta cần giới thiệu những cuốn sách này ở Việt Nam…
Tóm lại, văn học Nhật Bản đã được người Việt đón nhận trên cả bốn lĩnh vực dịch thuật, nghiên cứu phê bình, giảng dạy và sáng tác. Quá trình tiếp nhận này diễn ra theo quy luật tiếp nhận. Trên cả bốn lĩnh vực, việc tiếp nhận đều để lại những thành tựu đáng chú ý. Tuy nhiên, trong tương lai, việc giao lưu, tiếp nhận văn học Nhật Bản cần được thúc đẩy hơn nữa. Hai bên cần tăng cường trao đổi nhân lực nghiên cứu, trao đổi văn hóa để có những hiểu biết sâu rộng về nhau hơn, từ đó góp phần thúc đẩy những thành tựu tiếp nhận văn học giữa hai nước, cao hơn là thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng hơn giữa hai nước.
………………………..
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Thị Thu Hằng, Văn hoá Nhật Bản và Kawabata Yasunari, Giáo dục, 2007.
2. Đoàn Lê Giang, Chương Văn hoá Nhật Bản trong giáo trình Đại cương văn hoá phương Đông, GS Lương Duy Thứ chủ biên, ĐHQG TP HCM, 2000.
3. Đoàn Lê Giang, Con đường hiện đại hoá văn học của các nước khu vực văn hoá chữ Hán, Nghiên cứu Văn học, 7/2010.
4. Hasebe Heikichi, Văn hoá và văn học Nhật Bản - Đặc điểm chung và sự tiếp nhận ở góc độ cá nhân, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 1997.
5. Hà Văn Lưỡng, Dịch thuật và nghiên cứu văn học Nhật Bản tại Việt Nam, http:// www.thongtinnhatban.net/fr/t2689.html
6. Hữu Ngọc, Dạo chơi vườn văn Nhật Bản, Văn nghệ, 2006
7. Khương Việt Hà, Các khuynh hướng phản tự nhiên chủ nghĩa trong văn học Nhật Bản đầu thế kỷ XX, Văn học 8/2005
8. Lê Trường Sa, Vài đặc điểm văn học Nhật Bản 1945-1950, Tạp chí Văn học, Miền Nam 144/1972
9. Lưu Đức Trung, Kawabata Yasunari Cuộc đời và tác phẩm, Giáo dục, 1997
10. Mai Chương Đức, Tiểu thuyết Nhật Bản, Tạp chí Văn học (Miền Nam), số 90-6/1969
11. Mai Chương Đức, Kawabata – nhà văn Nhật Bản đầu tiên được giải Nobel văn học, TC Văn học (Miền Nam), 144-3/1972
12. Nhật Chiêu, Thế giới Kawabata Yasunari (hay là cái đẹp: hình và bóng), TC Văn học 3/2000
13. Nguyễn Nam Trân, Tổng quan lịch sử văn học Nhật Bản, Giáo dục, 2011
14. Nguyễn Thị Thanh Xuân (chủ biên), Văn học Nhật Bản ở Việt Nam, ĐHQG TP HCM, 2008
15. Nguyễn Tuấn Khanh, Văn học Nhật Bản từ thời Minh Trị đến nay, Viện TTKHXH, 1998
16. Nguyễn Văn Năm, Mây gió Hakonê: tiểu thuyết của Takakurate, TC Văn học 2/1964
17. N.T.Fedorenko, “Kawabata - Con mắt nhìn thấu cái đẹp”, Thái Hà dịch, Văn học Nước ngoài, 4/1999
18. Sei Kubota, Tình hình văn học hiện đại Nhật Bản, TC Văn học 6/1965
19. Shuichi Kato, Makoto Ueda… (Nguyễn Thị Khánh dịch), Văn học Nhật Bản, Viện TTKHXH, 1998
20. Trần Hải Yến, Một số nét đặc trưng của văn học Nhật Bản, Nghiên cứu Nhật Bản, 4/1999
21. Vĩnh Sính, Vài nét về thơ Nhật Bản I. Takuboku, TC Văn học số 90, Sài Gòn, 6/1969