Văn học nước ngoài

Tổng quan về sự tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam từ 1986 đến nay (phần 1)


16-10-2020
Tác giả: Lã Nguyên

Có thể nhận xét khái quát: phát triển di sản của Marx và Engels ở giai đoạn sau, mĩ học Mác xit truyền thống của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành khoa học thực tiễn. Tiếp thu và phát triển di sản của các vị kinh điển chủ nghĩa Mác ở giai đoạn đầu, mĩ học Mác xít phi truyền thống đã trở thành khoa học hàn lâm. Tiếp nhận hệ vấn đề khoa học hàn lâm để bổ sung vào hệ vấn đề của khoa học thực tiễn, tuy chưa nhiều, nhưng diện mạo của nền lí luận văn nghệ Mác xit Việt Nam thực sự đã đổi mới về cơ bản.

1. Mấy nét về tình huống văn hóa – lịch sử. Có thể nói, kể từ sau 1945, lịch sử tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam chưa bao giờ diễn ra sôi nổi như ở giai đoạn từ 1986 đến nay. Góp phần tạo nên không khí đầy hứng khởi này là cả một đội ngũ học giả đông đảo thuộc nhiều thế hệ có khả năng sử dụng ngoại ngữ, tên tuổi của họ từ lâu đã trở nên quen thuộc với độc giả, ví như Phan Ngọc, Nguyên Ngọc, Đỗ Đức Hiểu, Lê Hồng Sâm, Đặng Thị Hạnh, Đặng Anh Đào, Dương Tường, Trần Đình Sử, Phùng Văn Tửu, Lê Ngọc Trà, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Quân, Phương Lựu, Phạm Vĩnh Cư, Lê Huy Tiêu, Đỗ Lai Thúy, Trần Nho Thìn, Lã Nguyên, Phạm Xuân nguyên, Trần Hinh, Bửu Nam, Đòan Lê Giang, Ngô Tự Lập, Nguyễn Văn Dân, Đào Tuấn Ảnh, Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Lộc Phương Thủy, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Hồ Thế Hà, Lê Nguyên Cẩn, Lê Huy Bắc, Trần Thị Phương Phương, Cao Việt Dũng, Trần Huyền Sâm, Phạm Xuân Thạch, Trần Ngọc Hiếu, Cao Kim Lan, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng Ngọc Kiên… Họ tự nguyện làm “phu chữ”, cần mẫn phiên dịch, kiên trì giới thiệu, quảng bá nhiều công trình triết học, mĩ học, ngôn ngữ học, lí luận nghệ thuật có giả trị của các tác gia lừng lẫy tên tuổi để đưa tư tưởng văn nghệ nước ngoài đến với công chúng Việt Nam. Đằng sau đội ngũ học giả ấy, phải kể tới hàng vạn sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh, đây là lực lượng luôn nhậy cảm với cái mới, rất hăm hở trong việc vận dụng các lí thuyết hiện đại vào việc giải quyết đề tài cụ thể trong nghiên cứu khoa học.

Ở mỗi giai đoạn lịch sử, việc tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam thường nổi lên một số xu hướng chủ đạo. Các xu hướng chủ đạo này được hình thành dưới sự chi phối của tình huống văn hóa – xã hội.  Khi nghiên cứu tình huống văn hóa – lịch sử tác động tới quá trình tiếp thu tư tưởng lí luận văn nghệ vào Việt Nam từ năm 1986 đến nay, chúng tôi đặc biệt lưu ý tới các bình diện sau đây:

Thứ nhất: Trên phạm vi toàn thế giới, đây là giai đoạn có tính chất bước ngoặt: Liên Xô sụp đổ, phe xã hội chủ nghĩa tan rã, chiến tranh lạnh kết thúc, các quốc gia dân tộc chuyển qua thời đại toàn cầu hóa như quá trình không thể đảo ngược. Trong bước ngoặt lớn lao này, ở Việt Nam, cơ cấu xã hội có nhiều thay đổi, nhưng thiết chế quyền lực vẫn không suy suyển. Hiến pháp sửa đổi năm 1992 và hiến pháp sửa đổi năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Thứ hai: Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đưa ra đường lối “đổi mới” toàn diện đất nước. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về các văn kiện Đại hội XI khẳng định: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị – xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[1](Những chữ in đậm do tôi nhấn mạnh.- LN). Như vậy, đường lối “đổi mới” của Đảng là nhất quán.

Đọc lại văn kiện của Đảng qua các kì Đại hội VII (1991), VIII (1996), IX (2001), X (2006), XI (2011), ta thấy, tinh thần cốt lõi của đường lối “đổi mới” được thể hiện ở hai nội dung cơ bản: 1) Xóa bỏ hệ thống tập trung bao cấp, xây dựng nền kinh tế – xã hội theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2) Trong bối cảnh toàn cầu hóa trở thành xu thế không thể đảo ngược, Việt Nam tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa…

Thứ ba: Ở Liên Xô, Trung Quốc và ngay ở Việt Nam, vị thế của nền lí luận văn nghệ Mác xít truyền thống có nhiều thay đổi. Từ năm 80 của thế kỉ trước, nhất là từ năm 1991, sau khi Liên Xô sụp đổ, người ta thấy có sự lên ngôi của các hệ thống lí thuyết từng bị nhiều chỉ trích (ví như thi pháp lí thuyết của Trường phái hình thức, kí hiệu học văn hoá của Trường phái Tartu – Moskva), sự “hồi hương” của lí luận hải ngoại, sự tiếp thu cởi mở các học phái Âu – Mĩ và M. Bakhtin được đặt ngang hàng với những tác gia kinh điển vĩ đại của nhân loại. Đã thấy xuất hiện nhiều chuyên luận nghiên cứu kĩ lưỡng văn học hậu hiện đại Nga. Bên cạnh những bộ Bách khoa Đại Từ điển truyền thống, trên giá sách của người Nga hiện nay còn có cả Từ điển thuật ngữ hậu hiện đại được biên soạn rất công phu. Trong khi đó, theo dõi nội dung nhiều cuốn giáo khoa, giáo trình dành cho đại học và cao đẳng, hoặc bài vở đăng tải trên những tạp chí văn học lớn nhất của nước Nga trong thời kì này, ta không thể không thừa nhận một sự thật: hệ hình lí luận văn học lấy phản ánh luận Mác – Lênin và giai cấp luận làm điểm tựa ngày đang ngày càng bị lu mờ. Mươi năm trở lại đây, không tìm thấy tạp chí nào còn đăng những bài viết về hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ở nước Nga, hầu như không có trường đại học hoặc cao đẳng nào còn sử dụng các bộ giáo trình của những tác giả rất quen thuộc với độc giả Việt Nam như G.L. Abramovich, L.V. Sepilova, S.M. Petrov, L.I. Timofeev… Ngày nay, trong các trường đại học và cao đẳng ở nước Nga, tài liệu học tập của sinh viên chủ yếu là những bộ giáo trình rất mới của các học giả như V.E. Khalizev, N.D. Tamarchenko, V.I. Chiupa, S.N. Broiman, hoặc tập thể tác giả của Viện Văn học Thế giới (IMLI) thuộc Viện hàn lâm khoa học Nga. Bộ giáo trình do N.D. Tamarchenko chủ biên không hề nhắc tới phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa[2]. Phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa chỉ chiếm một vị trí vô cùng khiêm tốn trong giáo trình của V.E. Khalizev[3] và bộ 4 tập của IMLI[4]. Một đặc điểm nữa: ở tất cả những bộ giáo trình ấy đều không thấy có phần viết về nguyên lí tính đảng, tính giai cấp của văn nghệ, hoặc phản ánh luận của Lênin. Những chuyển động ấy cho ta thấy rõ: hệ thống lí luận văn nghệ Mác – Lênin truyền thống đã hoàn tất vai trò lịch sử của nó[5].

Ở Trung Quốc, Đại hội văn nghệ toàn quốc diễn ra vào tháng 10 năm 1979 với sự tham gia của 3200 đại biểu đã đánh dấu giai đoạn phát triển mới của văn học và lí luận văn học. Từ đó đến nay, nền lí luận văn nghệ mới của Trung Quốc đã trải qua ba giai đoạn phát triển: 1979 – 1989, 1989 – 1999 và 1999 đến nay. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn “phản tư”, nhìn lại quá khứ. Giai đoạn thứa hai là giai đoạn học hỏi, tìm cách thay đổi hệ hình lí thuyết. Giai đoạn thứ ba đi vào chiều sâu, tập trung xây dựng một nền lí luận văn nghệ hiện đại mang màu sắc Trung Hoa. Nền lí luận này vẫn tuyên bố sẽ lấy mĩ học Mác xít làm nền tảng, nhưng xem ra, cả giới sáng tác, lẫn giới nghiên cứu đều nhận ra sự bất cập của hệ thống mĩ học ấy.

Ở Việt Nam, tình hình cũng diễn ra tương tự như vậy. Khi công cuộc đổi mới văn nghệ được khởi động, trên các diễn đàn học thuật, người ta truy vấn, thảo luận sôi nổi về hàng loạt nguyên lí quen thuộc của mĩ học Mác –xít truyền thống. Cũng từ đây, trong các công trình nghiên cứu của giới khoa học, trong các luận văn, luận án của sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh, hệ thống lí luận văn nghệ Mác xít truyền thống không còn là ưu tiên lựa chọn hàng đầu để tiếp cận đề tài. Ở các lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa cũng không còn là ưu tiên lựa chọn của văn nghệ sĩ.

Vì sao vị thế của mĩ học và lí luận văn nghệ Mác xít truyền thống lại có sự thay đổi như vậy?

Thật đơn giản, ai cũng thấy, mĩ học và lí luận văn nghệ Mác xít truyền thống được kiến tạo trên nền tảng của nghệ thuật lãng mạn và hiện thực chủ nghĩa. Số phận của nó gắn chặt với số phận của sáng tác nghệ thuật  thuộc loại hình viết – đọc. Vậy mà từ nửa sau thế kỉ XX, các xu hướng sáng tác hiện đại và hậu hiện đại chủ nghĩa, nghệ thuật đa phương tiện ngày càng chiếm thế ưu thắng trong đời sống văn hóa trên phạm vi toàn thế giới. Cùng với sự phát triển của kĩ thuật số, trong thời đại giao lưu, hội nhập quốc tế, chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại, hình thức nghệ thuật đa phương tiện tràn vào cả những nước như Trung Quốc, Việt Nam. Cho nên, Giáo sư Trương Quýnh hoàn toàn có cơ sở để nói về những thách thức mà lí luận văn nghệ Mác xít phải đối mặt. Ông viết: “Ngày nay, lý luận văn nghệ Mác xít phải đối mặt với những thách thức ở hai phương diện: Thách thức thứ nhất là văn nghệ thế giới đa dạng hoá dưới điều kiện toàn cầu hoá, bao gồm đa dạng hoá về lý luận văn nghệ và đa dạng hoá về thực tiễn văn nghệ. Đặc biệt là sự thách thức của lý luận và thực tiễn văn nghệ của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại. Thách thức thứ hai là khoa học kỹ thuật cao do truyền thông điện tử và văn nghệ mang tới, làm cho văn học đi vào thời đại sáng tác điện tử và truyền thông kỹ thuật số”[6]. Nhiều học giả Việt Nam cũng có những nhận xét tương tự như vậy. Chẳng hạn: “Ở Việt Nam, từ khi đổi mới và hội nhập với thế giới, lý luận văn học và mĩ học Mác xít tuy vẫn được xác định là cơ sở lý luận nền tảng, nhưng không còn giữ vị trí độc tôn, duy nhất đúng như nhiều chục năm hậu bán thế kỉ XX nữa”. Hoặc: “… Từ những năm chín mươi của thế kỷ 20 đến nay, hệ thống lý luận về chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa và cùng với nó là phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, sau hơn bảy mươi năm tồn tại và phát triển, đã không đủ sức trụ vững ngay trên mảnh đất quê hương của nó. Dường như nó đã hoàn tất sứ mệnh lịch sử của mình để nhường chỗ cho những quá trình văn học khác đang nhen nhóm và thay thế”[7] .

Nói tóm lại, giờ đây, ai cũng nhận ra, lí luận văn nghệ và mĩ học Mác xít truyền thống không thể giữ được vị thế vốn có vì nó đã trở nên xơ cứng, bất cập trước thực tiễn khoa học và sáng tạo nghệ thuật của thời đại.

Ba bình diện nói trên tạo thành tình huống văn hóa-lịch sử. Nó vừa là thiết chế quyền lực, vừa là khung tri thức, quyết định toàn bộ xu hướng tiếp nhận các các tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam từ 1986 đến nay. Khảo sát các công trình dịch thuật, giới thiệu, các tiểu luận, chuyên luận của giới nghiên cứu, các luận văn, luận án của học viên cao học, nghiên cứu sinh liên qua tới chủ đề đang trình bày ở đây, chúng tôi thấy nổi lên ba xu hướng lớn:

Thứ nhất: Xu hướng tiếp thu các hệ thống mĩ học và lí luận văn nghệ Mác xít phi truyền thống, mang lại khả năng tự đổi mới cho nền lí luận văn nghệ Mác xít truyền thống.

Thứ hai: Xu hướng mở rộng biên độ giá trị, tiếp thu tinh hoa tri thức của nhân loại để xây dựng nền lí luận văn nghệ Việt Nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, lấy mĩ học Mác xít và đường lối văn nghệ của Đảng làm nền tảng.

Thứ ba: Đưa lí thuyết hiện đại vào thực tiễn ngiên cứu và phê bình văn nghệ, tạo được nhiều đột phá.

Xin trình bày những nét đại quát về ba xu hướng nói trên.

2. Tiếp thu các hệ thống tư tưởng văn nghệ Mác xít phi truyền thống. Chúng ta đang đứng trước nhiệm vụ từng bước xây dựng nền lí luận văn nghệ Việt Nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc, lấy mĩ học Mác xít làm nền tảng. Nhưng, như đã nói, trước thực tiễn nghiên cứu khoa học và sáng tạo nghệ thuật, nền lí luận văn nghệ Mác xit truyền thống đã trở nên xơ cứng, bất cập. Muốn tiếp tục làm hạt nhân kiến tạo lí thuyết, mĩ học và lí luận văn nghệ Mác xít phải tự đổi mới. Con đường gần nhất, tốt nhất, giúp mĩ học và lí luận văn nghệ Mác xit truyền thống tự đổi mới là tiếp thu hệ thống tư tưởng mĩ học và lí luận văn nghệ Mác xit phi truyền thống.

Khái niệm “mĩ học Mác xit truyền thống” được chúng tôi sử dụng để chỉ hệ thống mĩ học là lí luận nghệ thuật chính thống từng tồn tại ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước khi phe xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô sụp đổ (1991), ở Trung Quốc trước “cải cách mở cửa” (1979) và ở việt Nam trước “đổi mới” (1986). Mĩ học Mác xit phương Tây và mĩ học Mác xit từng tồn tại ở Liên Xô trước 1991 như những hệ thống lí thuyết văn nghệ phi chính thống, chỉ thể hiện quan điểm của cá nhân, của một nhóm, hay  một trường phái sẽ được chúng tôi gói chung vào khái niệm “mĩ học Mác xit phi truyền thống”.

Mĩ học Mác xit phi truyền thống có lịch sử dài lâu không thua kém là bao so với lịch sử mĩ học Mác xit truyền thống. G.N. Pospelov và Iu.M. Lotman chắc chắn là những nhà ngữ văn học Mác xít. Ngay cả với “Nhóm Bakhtin” giờ đây, chỉ cần đọc cuốn Chủ nghĩa Freud: Lược khảo phê phán, hoặc Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ (1929) của V.N. Voloshinov cũng đủ để không ai còn nghi ngờ lập trường Mác xit của họ. Ở cuốn trước, Voloshinov đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác để phê phán chủ nghĩa nghĩa Freud và đặt nền tảng triết học cho tâm lí học. Trong cuốn thứ hai, V.N. Voloshinov cũng đứng trên lập trường Mác xit để phê phán “chủ nghĩa chủ quan cá nhân” và “chủ nghĩa khách quan trừu tượng” như hai xu hướng phổ biến trong lịch sử ngôn ngữ học. Cho nên, lịch sử mĩ học Mác xit phi truyền thống ở Nga có thể được tính từ những năm đầu tiên của thế kỉ XX cùng với triết học ngôn ngữ, nhân học (“personnalisme”) và triết học văn hóa của những nhân vật lẫy lừng, như M.M. Bakhtin,  V.N. Voloshinov, P.N. Medvedev, L.V. Pumpjanskij, M.I. Tubjanskij, I. I. Kanaev, I. I. Sollertinskij (“Nhóm Bakhtin”). Từ những năm 1960 đến hết những năm 1980, nó tiếp tục phát triển cùng với kí hiệu học văn hóa của trường phái Tartu – Moskva, lí thuyết về tiến trình văn học của V.F. Pereverzev, N.G. Pospelov, V. Khalizev, lí thuyết thi pháp huyền thoại và cổ mẫu truyện kể của E.M. Meletinski…

Cũng như vậy, không thể nghi ngờ lập trường Mác xit của György Lukács, Karl Korsch và Antonio Gramsci , ba nhân vật được xem là những người đầu tiên đặt nền móng cho tư tưởng mĩ học Mác xit phương Tây. Cho nên, lịch sử tư tưởng mĩ học Mác xit phương Tây thực sự hình thành ngay sau Cách mạng tháng Mười Nga. Sự phát triển của nó gắn liền với tên tuổi của hàng chục tác gia kinh điển, ví như Walter Benjamin, Max Horkheimer, Galvano Della Volpe, Herbert Marcuse, Henri Lefebvre, Theodor W. Adorno, Jean-Paul Sartre, M. L. Goldman, Louis Althusser, Lucio Colletti…

Dòng Mác xit phi truyền thống đã sáng tạo cho nhân loại một di sản triết học, mĩ học, nghệ thuật học, phê bình nghệ thuật đồ sộ, vô giá. Ngày nay, đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình văn nghệ, hàng vạn sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh của chúng ta có thể đọc trực tiếp một phần nhỏ di sản ấy qua các bản dịch tiếng Việt. Vào những năm 1980 của thế kỉ trước, khi độc giả Việt Nam được đọc các chuyên luận của nhà Mác xit chính thống nổi tiếng M.B. Khrapchenco[8], thì đồng thời họ cũng được làm quen với bộ Dẫn luận nghiên cứu văn học của G.N. Pospelov[9]. Một chuyên luận khác của tác giả này cũng đã được dịch ra tiếng Việt: Những vấn đề phát triển lịch sử của văn học[10]. Nhờ sự nỗ lực vượt bậc của các dịch giả, công chúng nước ta được biết tới nhiều công trình của M.M. Bakhtin và “Nhóm Bakhtin”, ví như Những vấn đề thi pháp Đôxtôepxki[11], Lý luận và thi pháp tiểu thuyết[12], Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và Phục hưng[13], Vấn đề thể loại lời nói[14]. Đó là những tác phẩm kinh điển, có ý nghĩa quan trọng bậc nhất đối với khoa học ngữ văn toàn thế giới. Ngay trong năm nay đây, việc xuất bản lần thứ hai bản tiếng Việt cuốn Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ của V.N. Voloshinov[15] đã trở thành một sự kiện gây nhiều tiếng vang trong đời sống học thuật. Nhiều công trình quan trọng của Trường phái kí hiệu học văn hóa Tartu – Moskva cũng đã được Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy, Lã Nguyên, Trần Đình Sử, Đỗ Hải Phong tổ chức biên dịch cách công phu[16].

Riêng phần mĩ học Mác xit phương Tây gần như chưa được dịch ra tiếng Việt là bao. Cho đến nay, qua tra cứu, chúng tôi mới tìm thấy bản dịch cuốn Văn học là gì của J.P. Sartre[17] và một chương (chương III) cuốn Đặc trưng mĩ học (T.II) của György Lukács[18]. Dĩ nhiên, không thể căn cứ vào tình trạng dịch thuật để đưa ra nhận xét cuối cùng về sự tiếp thu di sản mĩ học Mác xit phương Tây vào Việt Nam. Vì mươi lăm năm trở lại đây, độc giả Việt Nam, nhất là giới trẻ, đang có xu hướng chuyển từ tiếng Nga sang tiếng Anh và tiếng Pháp. Lớp độc giả này hoàn toàn có thể trực tiếp tiếp thu văn hóa Tây Âu qua các văn bản gốc.

Di sản mĩ học Mác xit phi truyền thống còn tìm đến với khoa học xã hội – nhân văn Việt Nam theo ngả đường quảng bá, giới thiệu. Ngày nay, trước tác của M. Bakhtin, V.N. Voloshinov, P.N. Medvedev, Iu.M. Lotman đã được đưa vào chương trình giảng dạy ở nhiều trường đại học và cao đẳng có đào tạo ngành văn. Hàng vạn sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh Việt Nam dễ dàng thâm nhập vào nhiều tác phẩm thuộc loại “khó đọc” của họ, ví như  Những vấn đề thi pháp Đôxtôepxki, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và Phục hưng, Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ, nhờ hệ thống bài giảng của các giảng viên, nhất là qua những bài “giới thiệu” sách, những tiểu luận  của Phạm Vĩnh Cư[19], Trần Đình Sử (“Lời giới thiệu” sách Những vấn đề thi pháp Đôxtôepxki), Ngô Tự Lập (“Lời giới thiệu” sách Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ), Lã Nguyên[20]…Ngoài ra, cũng phải kể tới một số công trình nghiên cứu viết về M. Bakhtin của những học giả người nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt, ví như Lịch sử văn học như là sự sáng tác và nghiên cứu: trường hợp Bakhtin[21] của M.L. Gasparov, Di Sản Bakhtin[22], Mikhil Bakhtin – Nguyên lí đối thoại[23] của Tz. Todorov, hoặc Một nền thi pháp học sụp đổ[24] của J. Kristeva. Đó là những học giả lớn, có uy tín quốc tế, độc giả Việt Nam chắc chắn muốn lắng nghe ý kiến của họ, vì thế tư liệu và kết luận trong các công trình nghiên cứu vừa nhắc tới ở trên tất yếu sẽ chi phối xu hướng tiếp nhận của giới nghiên cứu, phê bình văn nghệ nước ta đối với di sản của M. Bakhtin.

Hiện nay, cuốn Tư tưởng văn hóa văn nghệ của chủ nghĩa Mác phương Tây của Phương Lựu là tập giáo trình dài hơi hơn cả dành cho bộ phận mĩ học Mác xit phi truyền thống[25]. Cuốn sách dày 343 trang, chia thành 14 chương, chương đầu mô tả tổng quan lịch sử và cấu trúc của chủ nghĩa Mác phương Tây, 13 chương còn lại giới thiệu tư tưởng triết học, mĩ học của 13 học giả và môn phái lớn: “Chủ nghĩa hiện thực vĩ đại” của G. Lukacs, “chủ nghĩa hiện thực vô bờ bến” của R. Garaudy,  “chủ nghĩa hiện thực  hiện đại” của E. Fischer, “chủ nghĩa lãng mạn mới” của H. Lefefbvre, “chủ nghĩa hiện đại” của T.W. Adorno, lí thuyết văn nghệ “Mác xit – phân tâm” của E. Fromm, lí luận văn nghệ “Mác xit – hiện sinh” của J.P. Sartre, lí luận văn nghệ “Mác xit – cấu trúc” của L. Goldman, lí luận văn nghệ “Mác xit – thực tiễn” ở Nam Tư, chủ nghĩa “bá quyền văn hóa” của A. Gramsci, chủ nghĩa “duy vật văn hóa” của R. Williams, mĩ học “sản xuất văn hóa” của T. Eagleton và giải thích học văn hóa của F. Jameson.

Với những công trình dịch thuật và giới thiệu như thế, mĩ học Mác xit phi truyền thống đã mang đến cho nền lí luận văn nghệ Mác xit truyền thống Việt Nam hệ chủ đề hoàn toàn mới mẻ, góp phần làm thay đổi diện mạo của nó. Quả vậy, nhìn lại cuộc đời hoạt động của K. Marx và F. Engels, ta dễ dàng nhận ra, ở giai đoạn đầu, di sản của họ được mở ra bằng những công trình triết học. Ở giai đoạn sau, di sản của họ được khép lại bằng kinh tế học và chính trị học. Chủ nghĩa Mác truyền thống chủ yếu phát triển di sản của Marx và Engels ở giai đoạn sau. Chủ nghĩa Marx phi truyền thống lại chủ yếu tiếp thu và phát triển di sản của Marx và Engels ở giai đoạn đầu. Phát triển di sản của Marx và Engels ở giai đoạn sau, mĩ học Mác xít truyền thống xoáy vào vấn đề phản ánh luận nghệ thuật, vấn đề về bản chất xã hội của văn nghệ, về mốiquan hệ giữa văn nghệ với hạ tầng cơ sở, nền tảng kinh tế, với chính trị và tư tưởng hệ. Tiếp thu và phát triển di sản của các vị kinh điển chủ nghĩa Mác ở giai đoạn đầu,  mĩ học Mác xit phi truyền thống lấy nghệ thuật làm đối tượng nghiên cứu chính yếu. Nó nghiên cứu bản chất và đặc trưng của nghệ thuật trong mối quan hệ với văn hóa và thượng tầng kiến trúc. Một loạt công trình của “Nhóm Bakhtin”, ví như Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ của V.N. Voloshinov,Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và Phục hưng, Những vấn đề thi pháp ĐôxtôiepxkiVấn đề thể loại lời nóiTiểu thuyết như một thể loại văn học… của M.M. Bakhtin đã đặt ra nhiều vấn đề về bản chất kí hiệu học của các hiện tượng tư tưởng hệ, vai trò của văn hóa dân gian đối với tư duy hiện đại, đặc trưng cấu trúc và lịch sử  của tiểu thuyết, vai trò của thể loại đối với tiến trình văn học… Nhìn vào nhan đề các chương trong chuyên luận của Phương Lựu như đã giới thiệu ở trên, ta càng thấy rõ hơn hệ vấn đề của mĩ học Mác xit phương Tây cũng phong phú, đa dạng biết chừng nào!

Có thể nhận xét khái quát: phát triển di sản của Marx và Engels ở giai đoạn sau, mĩ học Mác xit truyền thống của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành khoa học thực tiễn. Tiếp thu và phát triển di sản của các vị kinh điển chủ nghĩa Mác ở giai đoạn đầu, mĩ học Mác xít phi truyền thống đã trở thành khoa học hàn lâm. Tiếp nhận hệ vấn đề khoa học hàn lâm để bổ sung vào hệ vấn đề của khoa học thực tiễn, tuy chưa nhiều, nhưng diện mạo của nền lí luận văn nghệ Mác xit Việt Nam thực sự đã đổi mới về cơ bản.

Post by: Vu Nguyen HNUE
16-10-2020