Giải Goncourt 2008 của văn học Pháp thuộc về Nhẫn thạch (Atiq Rahimi). Người phụ nữ trong tác phẩm độc thoại trước người chồng đang trong tình trạng sống thực vật. Chị lắng nghe tiếng nói của chính mình, thổ lộ tất cả những bí mật của đời mình để mong được giải thoát khỏi mọi đau khổ[1]. Còn gì cô đơn và khẩn thiết hơn nữa “Chớ để riêng em phải gặp lòng em” (Xuân Diệu). Người phụ nữ trong các vở kịch của Samuel Beckett cũng vậy: họ phải nghe tiếng nói của chính mình. Samuel Beckett (1906 - 1989)- nhà văn Pháp gốc Ailen đạt giải Nobel, là một tác giả tiêu biểu của dòng văn học phi lý với những vở kịch được cả thế giới biết đến.
Với những nhân vật nữ trong kịch Beckett, khó tránh khỏi khiên cưỡng khi đi tìm những quy chiếu lịch sử, chính trị, xã hội cũng như áp dụng phương pháp phê bình văn học nữ quyền. Phê bình văn học nữ quyền được biết đến như một phương pháp phê bình ngày càng phát triển hiện nay. Beauvoir trong cuốn Giới tính thứ hai (1949) phê phán nền văn hoá phụ hệ trong việc phân biệt giới, nam giới đồng nghĩa với lịch sử, còn nữ giới bị coi thường, gạt ra ngoài lề xã hội. “On ne nait pas femme, on le devient” (Người ta không hiển nhiên là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ). Các bài viết của Nguyễn Hưng Quốc[2], và Dương Thị Huyền[3] đã đưa ra một số tiêu chí để phân tích hình ảnh người phụ nữ trong văn học.
Tuy nhiên ở Beckett, những phương pháp tiếp cận trên sẽ không phù hợp. Vấn đề phân định ranh giới của giới tính đôi khi đã bị phá vỡ trong các vở kịch của Beckett.
Với kịch Beckett, người ta dường như không chú ý tới đó là đàn ông hay phụ nữ mà chỉ còn chú ý tới lời nói đang vang lên như một ám ảnh: tiếng nói lảm nhảm hoặc say sưa, tiếng nói minh triết hoặc lẫn lộn, tiếng nói khi thì lắp bắp, khi thì hùng hồn. Yếu tố gợi lên đặc trưng giới rất mờ nhạt, bởi Beckett mặc đồng phục cho nhân vật của mình, những nhân vật “cùng váy xám dài”, “cùng tóc xám dài” (Même longue robe grise. Même longs cheveux gris). Đó là những Bam, Bem, Bim, Bom trong vở Quoi où. Có khi Beckett cho xuất hiện một loại nhân vật phi giới tính đến mức người ta chỉ thấy nổi bật lên trên vở kịch Không phải tôi chẳng hình hài, chẳng tính cách, mà là một cái miệng lải nhải mãi không thôi. Vở Thở: không có con người, nói một cách khác, không có sự phân định giới tính, chỉ có ánh sáng và những tiếng kêu, cùng với hơi thở được ghi âm sẵn. Bên cạnh đó, thế giới nhân vật của Beckett dẫu là đàn ông hay đàn bà thì thường nằm trong tập hợp của những kẻ lang thang, bệnh tật, không tuổi tác, không nghề nghiệp, không biết đấu tranh với số mệnh. Trong khi chờ đợi Godot miêu tả bốn nhân vật nam đợi chờ sự xuất hiện của một người đàn ông tên là Godot, nhưng Godot chưa bao giờ đến. Tàn cuộc nói đến một người tên là Hamm bị bại liệt ngồi trong chiếc ghế, luôn sai bảo Clov. Nagg và Nell nằm trong hai thùng rác, thỉnh thoảng vươn tay và nhô cái chỏm mũ ra, miệng đòi ăn bột. Động tác không lời I cho thấy một người đàn ông cùng những cử động quen thuộc với chiếc khăn tay của anh ta. Động tác không lời II là màn kịch câm diễn ra ở cuối sân khấu trên một bục phẳng với những động tác thể dục, xem đồng hồ, chui vào trong túi. Cuộn cuối cùng cho thấy sự xuất hiện của người đàn ông và máy ghi âm. Đoạn kịch I : A mù, ngồi trên một chiếc ghế xếp, cò cưa cây vĩ cầm.
Khảo sát kịch Beckett, chúng ta thấy nhân vật nữ xuất hiện ít hơn nhân vật nam và hiếm khi đóng vai trò trung tâm của vở kịch. Có thể so sánh sự xuất hiện của người phụ nữ và nam giới trong một số vở kịch của Samuel Beckett :
Stt
|
Tên vở kịch
|
Nhân vật nữ
|
Nhân vật nam
|
1
|
En attendant Godot[4]
(Waiting for Godot)
|
Trong khi chờ đợi Godot
|
|
Estragon, Vladimir, Lucky, Pozzo
|
2
|
Fin de partie
(Endgame)
|
Tàn cuộc
|
Nell
|
Hamm (con trai của Nell và Nagg) Clov, Nagg
|
3
|
Tous ceux qui tombent
(All that fall)
|
Những ai ngã xuống
|
Bà Rooney, hai cô bé Fitt và Dolly
|
Ông Rooney (chồng bà Rooney), Christy (người đánh xe), Ông Tyler (người kéo xe đã nghỉ hưu), Tommy (người khuân vác), Ông Barrell (giám đốc nhà ga), cậu bé Jerry
|
4
|
Actes sans parole I
|
Động tác không lời I
|
|
Một người đàn ông với cử động quen thuộc và luôn suy tư
|
5
|
Actes sans parole II
|
Động tác không lời II
|
|
Nhân vật A (chậm chạp và vụng về) và B (lanh lẹ)
|
6
|
La dernière bande
(Krapp’s last tape)
|
Cuộn cuối cùng
|
|
Krapp (người đàn ông biến dạng), Bande,
|
7
|
Cendre (Embers)
|
Tro
|
Ada
|
Henry, Maitre,
|
8
|
Oh les beaux jours
(Happy days)
|
Ôi, những ngày tươi đẹp
|
Winnie (50 tuổi)
|
Willie (60 tuổi)
|
9
|
Comédie
(Play)
|
Hài kịch
|
F1, F2
(F là chữ cái đầu tiên của từ «đàn bà » trong tiếng Pháp
|
H
(H là chữ cái đầu tiên của từ « đàn ông » trong tiếng Pháp
|
10
|
Pas moi
(Not I)
|
Không phải tôi
|
Không thấy hình hài nhân vật, chỉ có một cái miệng đang nói
|
11
|
Cette fois
(That time)
|
Lần này
|
ABC : 3 nhân vật nữ cùng nói
|
|
12
|
Pas
(Foot falls)
|
Bước chân
|
May, người phụ nữ tóc xám
G (Giọng đàn bà, cuối sân khấu, vang lên trong bóng tối)
|
|
13
|
Berceuse
(Rockaby)
|
Ru
|
F- Nhân vật nữ ngồi trên ghế xích đu
V - Tiếng nói thâu băng của nàng
|
|
14
|
Solo
(A piece of monologue)
|
Độc thoại
|
|
Người độc tấu
|
15
|
Catastrophe
|
Thảm hoạ
|
|
M (đạo diễn)
L (kĩ thuật viên ánh sáng)
A (viên trợ lí)
P (diễn viên chính)
|
16
|
Fragment de théâtre I
|
Đoạn kịch I
|
|
A (mù), B
|
17
|
Souffle
(Breath)
|
Thở
|
Không có con người, chỉ có ánh sáng và những tiếng kêu, cùng với hơi thở được ghi âm sẵn.
|
Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét sau :
- Tần số xuất hiện : nhân vật phụ nữ xuất hiện ít hơn nhân vật nam trong các vở kịch của Samuel Beckett. Vở kịch được coi là nổi tiếng nhất của Beckett là Trong khi chờ đợi Godot thậm chí không có nhân vật nữ nào. Bên cạnh đó, có khoảng ¼ trên tổng số các vở kịch của Beckett không xuất hiện nhân vật nữ. (Động tác không lời I, Động tác không lời II, Cuộn cuối cùng, Độc thoại, Thảm hoạ, Đoạn kịch I.…)
- Nhân vật nữ rất hiếm khi đóng vai trò trung tâm trong vở kịch. Chỉ có một số nhân vật nữ đóng vai trò trung tâm như : Winnie (Ôi những ngày tươi đẹp), May (Bước chân), N (Ru)...
- Rất nhiều vở kịch của Beckett chỉ xuất hiện một giới. Cả vở kịch chỉ toàn là nhân vật nữ (Bước chân, Ru, Lần này) hoặc chỉ toàn là nhân vật nam (Động tác không lời I, Động tác không lời II, Cuộn cuối cùng, Độc thoại, Thảm hoạ, Đoạn kịch I).
Để làm rõ hơn hình ảnh của nhân vật nữ trong tác phẩm của Beckett, chúng ta có thể phân tích lối thể hiện chân dung các nhân vật nữ trong một số tác phẩm mà họ xuất hiện tương đối rõ nét.
Stt
|
Tên vở kịch
|
Tên nhân vật nữ
|
Hình dạng
|
Trang phục, đồ vật
|
Giọng nói
|
1
|
Ôi, những ngày tươi đẹp
|
Winnie (50 tuổi)
|
- Tóc vàng hoe
- Béo tròn
- Ngực nở
- Cánh tay và vai thò ra, vạt áo trễ xuống
|
- Vòng ngọc trai
- Túi xách lớn màu đen
- Cái ô
- Gương soi
- Bàn chải đánh răng
- Cái kính
- Khăn mù xoa
- Khẩu súng
- Chai thuốc màu đỏ
- Thỏi son
- Mũ rơm
- Mũ không vành sặc sỡ
|
Tiếng nói lẩm bẩm, mấp máy, thỉnh thoảng xen vào đó là tiếng cười và sự im lặng rất lâu.
|
2
|
Tàn cuộc
|
Nell
|
- Nước da trắng bệch
- Hình dạng không hoàn chỉnh, chỉ thấy cánh tay thò ra bíu lấy hoặc đẩy nắp thùng rác, cái đầu thỉnh thoảng nhô lên
|
- Đầu đội mũ ngủ có viền đăng ten
- Nằm trong thùng rác
|
Giọng nói mệt mỏi, chán nản, sầu thảm, lúc cao, lúc thấp.
|
3
|
Bước chân
|
May
|
- Tóc xám rối tung
|
- Áo choàng tả tơi nhếch nhác, phủ kín hai bàn chân, kéo lê trên nền nhà
|
- Giọng nói yếu, lối nói chậm
- Lời thoại khi đi qua đi lại : như chỉ dẫn, đường vòng trở lại luôn là khoảng lặng
|
4
|
Ru
|
F
|
- Khuôn mặt già trước tuổi
- Mái tóc bạc và rối
- Đôi mắt mở to trên khuôn mặt trắng bệch
- Đôi tay trắng bệch bấu chặt vào thành ghế
|
- Áo dạ hội màu đen có viền ren, phủ kín thân hình từ cổ xuống chân.
- Tay dài
- Các vảy bạc đính vào vạt áo lấp lánh trong lúc đu đưa
- Chiếc mũ lệch như sắp rơi, có kết những trang trí rất kì lạ để bắt ánh sáng lúc đu đưa
- Chiếc ghế bằng gỗ, không sơn phết nhưng đánh thật bóng để bắt ánh sáng, và có thêm chỗ gác chân. Lưng ghế thẳng. Hai tay vịn cong và tròn đầu, như thể để cho nằm
|
- Tiếng nói nhỏ đều, không biểu lộ tình cảm, yếu dần từ câu «không thể tiếp tục được nữa». Mệnh lệnh «nói nữa đi» của N, mỗi bận càng yếu dần
|
Qua bảng thống kê trên, ta thấy nhân vật nữ của Beckett hiện ra chủ yếu qua những trang trí, «phụ tùng» đi kèm. Những chi tiết về nhân dạng ít hơn những chi tiết về đồ vật. Đó có thể là những đồ trang sức của người phụ nữ như: khăn mù xoa, thỏi son, gương, lược, chiếc mũ, vòng ngọc trai; hoặc cũng có thể là những đồ vật khác xuất hiện trên sân khấu như: thùng rác, chiếc ghế. Trong bối cảnh đó, người phụ nữ - những con người mà Beckett thường miêu tả họ trong bộ dạng thểu não, xám xịt - như lọt thỏm trong các đồ vật. Chân dung người phụ nữ qua tác phẩm của Beckett thường xuất hiện với gương mặt trắng bệch. Các nhân vật nữ của ông, ngoại trừ Winnie, như chưa từng bao giờ có nhu cầu làm đẹp. Beckett rất hay dùng những cụm từ thể hiện sắc thái hoặc nhợt nhạt hoặc u sầu để miêu tả gương mặt người phụ nữ[5]. Đồ vật đã lấn át con người, gợi ta liên tưởng tới một vở kịch cùng trào lưu văn học phi lí của Ionesco: Những chiếc ghế. Các đồ vật đi kèm cũng góp phần cụ thể hoá nỗi cô đơn của con người trên thế gian này. Con người không chia sẻ, không hiểu nhau, họ chỉ biết luẩn quẩn với những thứ lỉnh kỉnh xung quanh. Sự hoán đổi đồ vật qua những bàn tay như phụ hoạ thêm ý nghĩa của những chuyển động và cử chỉ bổ sung vào khoảng trống mà lời nói chưa chuyển tải hết. Những đồ vật đôi khi xuất hiện chẳng có nguyên cớ, nhưng được lặp đi lặp lại khiến chúng ta phải chú ý tới chúng. Như vậy, chân dung nhân vật nữ của Beckett chủ yếu bộc lộ qua những trang trí, «phụ tùng», chi tiết về đồ vật nhiều hơn chi tiết về nhân dạng con người.
Ở phương diện nghệ thuật kịch, Beckett đã thể hiện tính chất độc thoại trong đối thoại, bộc lộ qua việc người phụ nữ tự nghe tiếng nói của chính mình. Qua sơ đồ trên, ta thấy rằng Beckett đã chú ý miêu tả giọng nói của nhân vật. Những giọng nói ám ảnh mãi không thôi, qua đó lộ rõ thân phận con người. Các nhà nghiên cứu rất quan tâm tới yếu tố lời thoại trong kịch Beckett. Đó có thể gọi là kiểu “đối thoại giữa những người điếc[6]”, hay kiểu đối thoại “càng trì đọng lại bởi những từ lặp, những sáo ngữ nhàm chán mà ngớ ngẩn[7]” Quá trình liên lạc giữa các nhân vật bị đứt gãy, các nhân vật không hiểu nhau và không hiểu chính mình. Antoine Berman đã gọi tình trạng đó là giọng nói tự nghe lại chính mình[8]. Tác phẩm của Beckett nhằm đạt đến độ trống rỗng về ngôn ngữ. Ở đó, cùng với những quãng ngưng, sự lặp đi lặp lại góp phần vào cảm giác phá sản của ngôn ngữ khi nó không đạt tới việc biểu đạt thế giới hoặc những tình cảm theo cách dễ hiểu. Một số câu, hoặc đoạn của câu, trở lại với lối tuần hoàn, và dường như biểu thị những ám ảnh của các nhân vật. Nhân vật Winnie trong Ôi những ngày tươi đẹp thể hiện rất rõ hình ảnh người phụ nữ phải nghe giọng nói của chính mình. Suốt hồi I, chúng ta nhìn thấy Winnie từ thắt lưng trở lên, bà cứ tụt dần, tụt dần và tới hồi II thì chỉ là một cái đầu nhô lên khỏi đụn cát trong khi tiếng nói vẫn không ngừng cất lên. Người phụ nữ đó muốn được giao tiếp với ông chồng Willie, người cầm tờ báo, luôn ngái ngủ hoặc thỉnh thoảng phát ra vài tiếng ú ớ. Willie chỉ là một thính giả khiếm khuyết, không chú ý và cũng không đáp lại tiếng nói của Winnie. Nếu như Beckett viết bản Ru mang âm hưởng của một bài hát ru thì vở Ôi những ngày tươi đẹp được coi như một bản xônát cho giọng nói và sự chuyển động. Tác giả miêu tả một loạt hành động của người phụ nữ: tìm bàn chải, lấy khăn mù xoa trong ngực áo ra, cất mù soa vào vạt áo, đeo kính lên, tô môi… Những lời nói rơi vào cô độc. Winnie và Willie quan sát lẫn nhau trong sự im lặng khủng khiếp. Giọng nói của Winnie như xót thương, lại như trêu trọc và khinh thường. Bên cạnh đó là những tiếng ú ớ của chồng cùng một cái nhìn bất lực và đáng tiếc. Giữa hai người là một khoảng trống, bởi thiếu vắng tình yêu và lòng tin. Lời nói của Winnie mang cái vỏ của một sự lạc quan: thức dậy vào buổi sáng, nhớ lại và thường trích dẫn sai, nghe âm nhạc, ấp úng theo lời bài hát, dường như vui vẻ quan sát xung quanh. Người phụ nữ nài xin sự đáp lại dù là chút ít từ phía người chồng, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là vô vọng. Sự đứt gãy trong giao tiếp của cặp vợ chồng Winnie khiến chúng ta nhớ đến cuộc hội thoại ngớ ngẩn, gây cười của ông bà Smith, ông bà Martin trong vở Nữ ca sĩ hói đầu[9] của Ionesco - một tác giả tiêu biểu của văn học phi lí. Trong vở Ru, ta thấy vang lên giọng nói mềm mại của một người phụ nữ. Trong 15 trang nguyên bản lặp đi lặp lại rất nhiều cụm từ “finisse”, “enfin”. Trước khi chìm vào cái chết, nhân vật F rơi vào trạng thái trống rỗng, vô cảm. Cuộc đời của hai người phụ nữ - hai mẹ con chẳng khác gì tam giác đồng dạng. Một bà già lẩm cẩm và một cô gái lỡ thời. Tác giả đặt nhân vật vào trong một ngày duy nhất, đó lại chính là ngày mà cô gái phải từ biệt cõi đời. Ru cho thấy người phụ nữ rút lui từ thế giới phía ngoài vào cái ghế của cô ấy, nơi mà cô chìm sâu vào những nỗ lực tự nhận thức. Tác phẩm là điệp khúc về sự cô đơn, tuổi già và cái chết. Ngay cả giọng nói được cất lên từ đầu đến cuối tác phẩm nhưng cũng chẳng ai nghe, chẳng ai hiểu. Ngôn ngữ bị bào mòn nhằm diễn tả sự xơ cứng trong cảm xúc của con người. Và vang vọng lên là những lời nói về một kết cục, về một cuộc đời đã đến hồi chấm dứt. Lời nói chỉ còn lại điệp khúc như vang lên từ cõi chết: hãy vuốt mắt cho nàng, hãy vuốt mắt cho nàng. Vở Bước chân cũng đặt tiếng nói của người phụ nữ gần kề cái chết. Tác phẩm miêu tả hình ảnh của May nói với mẹ mình, bên cạnh đó người mẹ nói với con qua tiếng vọng từ bóng tối, nhắc lại hình ảnh đứa con gái thường đi tới, đi lui trong căn nhà, và muốn lột bỏ tấm thảm dày để có thể nghe được rõ tiếng bước chân mình. Tác giả mở đầu bằng tiếng May gọi người mẹ đang hấp hối. Mặc dù có sự hồi đáp của người mẹ, nhưng nó lại được vang vọng từ trong bóng tối cuối sân khấu, tạo nên một hố sâu ngăn cách. Âm thanh của lời nói yếu ớt hoà nhịp với tiếng bước chân đi qua đi lại kết hợp với sự chuyển động của ánh sáng đã tạo nên một hiệu ứng chính xác và biểu cảm. Không phải tôi` cho thấy người phụ nữ với chứng quên ngôn ngữ. Dis, Joe gợi lại sự chết của hai người phụ nữ. Người phụ nữ lắng nghe tiếng nói của chính mình, thực chất là chìm vào màn độc thoại không có mở đầu và không có kết thúc. Tác giả miêu tả giọng nói đó khi thì vang lên trong cô độc, khi thì là lời vọng lại từ quá khứ, khi thì hiện hữu qua một cái máy ghi âm vô cảm. Những nhân vật luôn phải trải qua cuộc đấu tranh giữa tiếng nói và sự im lặng đến quạnh vắng.
Càng ở những vở kịch giai đoạn sau, giọng nói của nhân vật càng bị giảm thiểu để nhường chỗ cho sự yên lặng. Song song với điều đó là sự phân rã, xuống cấp của thân thể các nhân vật nữ. Không phải là một con người hiện diện nữa, mà có khi chỉ là một phần thân thể, hay thậm chí là một cái miệng hồn lìa khỏi xác (Không phải tôi). Có thể nhận ra quá trình xuống cấp ấy ở khắp các vở kịch: người phụ nữ bị lún dần vào trong đụn cát trong Ôi, những ngày tươi đẹp, người phụ nữ với chứng quên ngôn ngữ trong Không phải tôi và người phụ nữ chết trong Dis, Joe. Biết bao khán giả trên khắp thế giới đã bị lôi cuốn bởi những vai diễn của một số nữ diễn viên nổi tiếng đã làm bất tử hoá nhân vật trong kịch Beckett: Madeleine Renaud, Billie Whitelaw, Christine Tsingos... Whitelaw Billie kể lại rằng Beckett đã cùng chia sẻ với quá trình vào vai của diễn viên: ông tính toán thời gian của những chuyển động, động viên, thuyết phục họ. Beckett động viên nữ diễn viên chấp nhận cả loạt những vị trí liên quan cho cái đầu, thân thể và cánh tay cô ấy. Ở vở Ôi những ngày tươi đẹp khi tới màn hai, Winnie bị lún tới cổ, những cử chỉ tất nhiên không còn thoải mái như trước nữa, tuy thế còn vài sự chuyển động cực tiểu của cái đầu, đôi mắt, lông mày. Đó là điều mà nhà văn vẫn lưu tâm. Những cử động dù là rất nhỏ ấy nhưng lại chất chứa ý nghĩa sâu xa về sự cùng cực của con người.
Phải chăng Beckett không muốn đưa ra những hình tượng nhân vật làm yên lòng con người mà muốn xoáy sâu vào sự phi lí, vô nghĩa của cuộc sống? Thông qua hình tượng con người tự nghe tiếng nói của chính mình, Beckett đã tạo ra quá trình khử của ngôn ngữ: nhân vật từ đối thoại chuyển sang độc thoại và cuối cùng là sự im lặng. Tiếng nói – phương tiện để chuyển tải hành trình tâm linh đó cũng đã bộc lộ sự cằn cỗi và bất lực. Vẫn còn điều gì đó đọng lại trong những điệp khúc về nỗi cô đơn, bệnh tật và cái chết. Cảm giác bất ổn, bứt rứt toát ra từ mỗi nhân vật của Beckett đã bủa vây và ám ảnh người đọc. Cần nhấn mạnh rằng, hiệu quả thể hiện của kịch Beckett ở đây là sự khái quát về con người nói chung. Bởi nữ giới là một phạm trù bao giờ cũng chỉ có thể xác định trong quan hệ đối tác: nam giới. Khi người phụ nữ đã cô đơn thì chắc chắn đối tác của họ không thể khác.
[1] “Đúng vậy đó, Nhẫn Thạch của em (…) Anh tồn tại, mà anh không cử động. Anh nghe, mà anh không nói. Anh thấy, mà anh vô hình! Như Thượng đế, anh kiên nhẫn, tê liệt. Và em, em là Sứ giả của anh! Đấng tiên tri của anh! Em là giọng nói của anh!” . Atiq Rahimi, Nhẫn thạch, Nxb Nhã Nam, 2009, tr.177.
[2] Nguyễn Hưng Quốc cho rằng khi phân biệt giới tính nam và nữ, người ta thường căn cứ trên năm yếu tố chính: sinh lý, kinh nghiệm, vô thức, các điều kiện kinh tế xã hội và diễn ngôn. Website: http://www.tienve.org
[3] Trong bài viết Nguyên lí tính mẫu trong truyền thống văn học Việt Nam, Dương Thị Huyền có đưa ra những tiêu chí đánh giá khi nghiên cứu hình ảnh người phụ nữ trong văn học : người phụ nữ với việc lí giải nguồn gốc dân tộc, người phụ nữ với những giá trị về phẩm chất và đức hạnh, người phụ nữ với lao động sản xuất, người phụ nữ với sức mạnh đấu tranh bảo vệ tổ quốc, người phụ nữ với ý thức bản năng mạnh mẽ. Website : http://www.vanhoahoc.com
[4] - Về những tác phẩm của Beckett, chúng tôi sử dụng bản in của Nxb Minuit. Lần lượt như sau: En attendant Godot, Les Éditions de Minuit, 1952; Fin de partie, 1957 ; Tous ceux qui tombent, 1957 ; La dernière bande suivi de Cendres, 1959 ; Oh les beaux jours suivi de Pas moi, 1963 ; Comédie et Actes Divers, 1972 ; Pas, suivi de Fragment de theâtre I – Fragment de theâtre II – Pochade radiophonique – Esquisse radiophonique, 1978 ; Catastrophe et autre dramaticules : Cette fois, Solo, Berceuse, Impromptu d’Ohio, Quoi òu, 1986 ; Quand et autres pièces pour la télévision, 1992.
- Ở Việt Nam, trong toàn bộ sáng tác của Beckett thì chỉ duy nhất vở En attendant Godot đã được dịch. Đó là bản dịch của Đình Quang (Chờ Godot, Nxb Thế giới, 1995) và Vũ Đình Phòng (Đợi Godot, in trong cuốn Văn học phi lí do Nguyễn Văn Dân khảo luận và tuyển chọn, Nxb Văn hóa Thông tin, 2002). Ngoài ra, ở bộ phận văn chương hải ngoại, một vài vở kịch ngắn của Beckett cũng được dịch và đăng tải trên website http://www.tienve.org
[5] Samuel Beckett, Fin de partie, Les Éditions de Minuit, 1957, tr.29. Beckett đã miêu tả khuôn mặt của Nell là : «teint très blanc».
[6] Lê Nguyên Cẩn, Kịch phi lí và kịch châu Âu in trong sách Văn học so sánh-nghiên cứu và ứng dụng, Nxb Đại học Sư phạm, 2005
[7] Đặng Anh Đào, Samuel Beckett và kịch phi lí, in trong Việt Nam và phương Tây, tiếp nhận và giao thoa trong văn học, Nxb Giáo dục, 2007, tr.267
[8] Antoine Berman dùng cụm từ «La voix qui s'écoute». Website : http://www.acstrasbourg.fr/pedago/lettres/lecture/Beckettbio.htm
[9] Ionesco, Nữ ca sĩ hói đầu, Lê Nguyên Cẩn dịch, in trong cuốn Kịch phi lí trong văn học phương Tây thế kỉ XX, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, 2006-2007