Hán nôm

THÔNG TIN MỚI NHẤT VỀ CHỈ NAM NGỌC ÂM


15-10-2020
Tác giả: NGÔ ĐỨC THỌ

1. Vấn đề niên đại bản in CHỈ NĂM NGỌC ÂM

Trong kho tàng di sản thư tịch Hán Nôm của nước ta có một cuốn sách mà giới nghiên cứu Hán Nôm cả trong và ngoài nước phần nhiều đều đã biết tiếng. Đó là cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Nói là biết đến nhưng cũng chỉ là mới mấy chục năm gần đây, người nói đến sớm nhất, mà tại đây tôi xin bày tỏ sự biết ơn, chính là cố học giả danh tiếng Trần Văn Giáp(1). Dù một số ý kiến của cụ về sau có những nhà nghiên cứu nêu lên để thảo luận đi sâu nghiên cứu, nhưng trên tất cả và đặc biệt có ý nghĩa là nhờ có đôi mắt tinh đời của nhà thư tịch học Thúc Ngọc mà giới nghiên cứu ngày nay mới biết đến để sử dụng và nghiên cứu về CNNÂ. Có nhiều vấn đề để nghiên cứu CNNÂ về niên đại biên soạn và niên đại bản in, về tác giả và nội dung biên soạn. Để cho được ngắn gọn, bài này tôi chỉ nghiên cứu và thông báo về kết quả nghiên cứu của tôi về niên đại của bản in và qua đó cũng tiến được một bước trong việc xác định tác giả.

Trong bài viết của mình cụ Trần đã giới thiệu khá rõ về văn bản CNNÂ mà bản in cụ đã nêu rõ là bản AB.372 của Thư viện Khoa học xã hội, tức là bản đã chuyển sang Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VNCHN) hiện nay. Nhưng điều khó khăn liên quan đến việc xác định năm khắc in là trên văn bản không có dòng niên hiệu thường thấy, mà chỉ có năm can chi: 年 次 辛 巳 孟 春 榖 日 (Niên thứ Tân Tị mạnh xuân cốc nhật).

Cả 7 trang ảnh kèm theo trong bài của cụ Trần đều chụp từ bản AB.372. Nhưng sau khi nói về bản này, Cụ có dẫn một bản khác mà cụ cho biết: "Gần đây tôi lại mới mượn được của ông bạn Phùng Uông một bản sách CNNÂ bản in cổ, có đủ tờ mặt sách đến cuối cùng, cũng giống như bản in cổ của thư viện mà đủ hơn và in rõ hơn".

Cứ như Cụ nói, thì tờ mặt sách ở bản của Thư viện đã rách mất, mà ảnh tờ mặt sách in kèm bài vẫn là ảnh của bản Thư viện nhưng lấy từ bản chụp microfilms số 3836 do EFEO đã chụp từ trước. Còn tờ bìa ở bản sách của tôi thì từ lâu đã bị rách mất mảng lớn, chỉ còn mấy góc, nhưng nhờ có ảnh ấy, so qua cũng thấy giống bìa của bản Thư viện.

Sau khi giới thiệu bản ông Phùng Uông như trên, cụ Trần phiên và dịch đủ cả hai bài Tựa Nôm và Hán. Cuối bài Tựa chữ Hán không thấy phiên âm dòng có năm can chi, nhưng cuối có dịch dòng niên hiệu là "Hoàng triều niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 năm Tân Tị tháng giêng ngày tốt (1761)".

Tôi chưa được xem bản của cụ Phùng Uông, nhưng theo mô tả của Trần Xuân Ngọc Lan (TXNL) chắc đúng, vì so sánh các bản in chị cho biết ở bản của ông Đoàn Khoách - sao chụp từ bản in kí hiệu HM.2225 của Thư viện Hội á Châu (Paris) có dòng chữ như cụ Trần dịch trên mà nguyên văn chữ Hán là: "Hoàng triều Cảnh Hưng nhị thập nhị niên tuế thứ Tân Tị mạnh xuân cốc nhật".

Trước đây khi khảo cứu văn bản CNNÂ chị TXNL có đến xem và đối chiếu sơ qua với bản của tôi, tuy không dẫn kỹ nhưng có nói đến, nhân đây ghi lại để biết địa chỉ các bản in CNNÂ mà tác giả luận án đã điều tra hơn 20 năm về trước:

CNNÂ hiện có 7 truyền bản in và chép tay đang lưu trữ ở thư viện và ở tư nhân.

Ở thư viện: Thư viện Thông tin Khoa học Xã hội giữ bản in, ký hiệu AB.372 (viết tắt bản T) và hai bản chép tay, ký hiệu VNv.201 và AB.163. Cả hai bản chép tay đều không đề tên người chép. Bản AB.163 do Viện Viễn Đông Bác Cổ thuê chép. Bản VNv.201 tiếp thu được từ Thư viện Long Cương của Cao Xuân Hạo sau Hòa Bình.

Thư viện Societe Asiatique (Hội châu Á) lưu trữ một bản in, ký hiệuHM. 2225 (viết tắt bản S). Hiện anh Đoàn Khoách có phóng ảnh của bản này.

Ở tư nhân: Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn có một bản in (viết tắt bản NTC): Ông Phùng Uông và anh Ngô Đức Thọ mỗi người đều có một bản in”.

Như vậy có thể biết niên đại Cảnh Hưng Tân Tị (1761) mà tác giả đã ghi chỉ là niên đại của một bản in CNN - cụ thể là bản của cụ Phùng Uông và bản của ông Đoàn Khoách (tức bản của HAC). Còn các bản: Bản AB.372 của VNCHN, bản của GS. Nguyễn Tài Cẩn và bản của Ngô Đức Thọ đều thuộc loại không có mấy chữ Hoàng triều Cảnh Hưng..., mà chỉ có 8 chữ “niên thứ Tân Tị” như đã mô tả ở trên.

Sau bài của cụ Trần có các tác giả sau đây lần lượt trao đổi hoặc có liên quan đến bài của Cụ: Hoa Bằng, Nguyễn Tài Cẩn, Đào Duy Anh, Lê Văn Quán và Trần Xuân Ngọc Lan(2). Để cho khỏi rối, bài này của tôi phải bám chặt vấn đề, chỉ đề cập đến ý kiến của các tác giả trên khi cần thiết phải có sự so sánh nhận xét trực tiếp. ở đây chúng ta đang bàn đến vấn đề năm Tân Tị - niên đại của bản in CNNA, Lê Văn Quán (LVQ) và TXNL là hai tác giả có trực tiếp khảo cứu vấn đề này. Cả hai tác giả đều đưa ra những chứng cứ, biện luận mà tóm tắt thì Lê Văn Quán kết luận:

“Cuối cùng, chúng ta chỉ có một con đường giải thích thỏa đáng hơn cả. Sách Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa xuất hiện phải sau khi những cứ liệu phân tích ở trên ra đời, nghĩa là phải sau thế kỷ XVI. Vì đấy là tiền đề và cũng là điều kiện cần thiết để tác giả hoàn thành tác phẩm”.

"Sau thế kỷ XVI" - như lời LVQ nói - tức là thế kỷ XVII, nhưng cụ thể là năm nào thì bỏ ngỏ, mà đồng thời cũng không thấy nói gì đến Tân Tị nữa.

Sau LVQ, TXNL nói rõ cho biết Tân Tị 1761 là niên đại ở bản chụp của ông Đoàn Khoách (cũng tức là ở bản in của HAC). Nhưng lường trước khả năng còn có một Tân Tị trước 1761, TXNL lần lượt theo niên biểu mà kê ra các năm Tân Tị trước: 1701 (Chính Hòa 22), 1641 (Dương Hòa 7), 1581 (Quang Hưng 4), 1521 (Lê Chiêu Tông, Quang Thiệu 6), 1461 (Lê Thánh Tông, Quang Thuận 2). Đến mốc 1461, TXNL dừng lại và giải thích rằng: "Sở dĩ chúng tôi dừng lại ở đây là vì nhiều chứng cứ về chữ Nôm, về tính chất của hệ thống chú âm, về địa danh v.v… không cho phép tác phẩm có thể biên soạn xong vào những năm Tân Tị sớm hơn "(tr.16).

Tính đến những Tân Tị trước 1761 là đúng, nhưng TXNL dừng lại ở Tân Tị 1461 và cho rằng không thể là Tân Tị nào sớm hơn thì ý kiến của tôi hoàn toàn khác, như sẽ trình bày dưới đây.

2. Xác định chữ in kiêng húy trong văn bản CNNÂ

a. Nhận diện chữ viết đặc biệt:

Như vậy "Niên thứ Tân Tị" là lạc khoản rất nan giải nhưng quan trọng, cần thiết phải tìm cho ra.

Chính tôi có một bản in CNNÂ như trên đã nói, nhưng mấy chục năm trôi qua phải bó tay "nhức đầu" về chuyện Tân Tị, dù từ lâu tôi đã nhận biết đó phải là một Tân Tị sớm hơn rất nhiều Tân Tị 1761. Nhưng là Tân Tị nào ? Chính mình lại làm chuyên môn văn bản nữa, chẳng lẽ không thể xác định được hay sao?

Có một điều mà tôi đã biết từ trước khi chị TXNL bảo vệ luận án, và khi sách chị in ra tôi phải mở ngay ra xem tác giả có nói đến hay không. Hơn 20 năm trước mà chị đã làm được một luận án như vậy quả thật đã rất xuất sắc. Nhưng có những vấn đề rất hóc búa như ở CNNÂ thì không thể cầu toàn, vì vậy có điểm nào vì học thuật phải đem ra thảo luận thì cũng là tự nhiên.

Điều nói đó, là ở một chữ trong câu sau đây:

Tình trạng văn bản tờ 33a ở bản VNCHN và bản của tôi đều tốt và giống nhau. Từ ghép gồm 2 chữ (trong đó có 1 chữ đặc biệt) được câu ra ngoài và phóng to để tiện theo dõi.

Tại trang tương ứng trong bản phiên âm chú giải của TXNL (tr.150).

Theo dẫn trên, TXNL đọc chữ ấy là Sào ty , coi như một chữ Hán bình thường, ở phần khảo cứu cũng như tại vị trí này không thấy tác giả giải thích hoặc nêu lên có gì đặc biệt về tự hình hay không. Như vậy tức là công trình của TXNL đã bỏ sót hoặc bỏ qua một chữ rất quan trọng. Với câu chữ thông thường nào khác thì sai sót chỉ là vấn đề cụ thể, nhưng chữ này - như tôi sẽ chứng minh ở dưới - rất quan trọng để tìm hiểu giải mã niên đại văn bản và do đó dẫn đến những vấn đề nội dung và giá trị của cả cuốn CNNÂ.

Vậy là có vấn đề cần phải khảo cứu chứng minh chữ nêu trên là chữ gì, có đúng là chữ Sào hay không ?

Chữ này quả thật phần bên phải có hình chữ sào 巢 (tổ), do đó cả chữ cũng có khả năng là Sào như TXNL đã đọc. Để quyết nghi vấn đề này tôi phải tìm nhặt và trích ảnh của hầu hết các chữ Sào trong CNNÂ. Tất cả 15 chữ, kê ở bảng dưới đây:

Trong bảng trên chúng ta chú ý các đặc điểm sau đây:

- Tất cả có 15 chữ sào, trong đó có 10 chữ chính tự 巢 và 5 chữ làm thiên bàng. Những chữ có thiên bàng sào đều có âm là sào.

- Cả 5 chữ lấy sào làm thiên bàng (số 2, 3, 8, 11, 12) thì chữ sào đều viết chính xác với bộ xuyên 巛 đặt đúng trên chữ quả 果 và đặt gọn ở vị trí thiên bàng (bên phải ), như chữ số 2: không có chữ nào bộ xuyên 巛 viết chờm lên cả bề mặt phía trên của toàn chữ không nằm gọn ở một phía thiên bàng:

Như vậy đã rõ, đến đây có thể kết luận: bộ ký hiệu 4 nét gãy đặt trên chữ đang khảo sát không phải là một phần của chữ "sào" (bị viết sai thừa nét), mà là một phần riêng biệt của chữ đang khảo sát. Bộ ký hiệu 4 nét gãy này là cách viết hai chữ "tòng” mà văn bản Việt Nam thường dùng để viết các chữ kiêng húy. Tôi đã thực hiện công trình nghiên cứu chữ húy(3) nên dễ dàng nhận ra đó là bộ ký hiệu bốn nét gãy đó là phần ghép trên để tạo ra một chữ viết kiêng húy.

b. Xác định chữ húy:

Xác định chữ đang khảo sátlà một chữ húy rồi, nhưng cụ thể đó là chữ gì (âm, nghĩa), và nhất là kiêng húy ai ?

Dưới đây tôi sẽ lần lượt khảo cứu vấn đề này.

Thông thường, khi đã nhận diện được một chữ là chữ viết kiêng húy thì việc đọc chính tự của nó cũng không mấy khó khăn, nhưng với chữ húy này có khác: tuy cả bản của VNCHN và bản của tôi đều in rõ ràng, nhưng do kiểu chữ khắc và nét in mực đậm, cho nên có một bộ phận khó đọc, cần có biện luận. Chúng ta tạm thời không nói gì đến bộ ký hiệu bên trên nữa mà chỉ tập trung vào phần dưới để xác định âm nghĩa của nó. Chữ đó, phía bộ thủ bên trái xem qua có thể đọc nhầm thành bộ nhật 日 (lường trước phòng xa như vậy!), nhưng rõ đó là bộ túc 足 () các sách in đều viết cách điệu như vậy. Dù sao, để chắc chắn cũng cần dẫn ra vài chữ đồng minh của nó: chỉ cần thấy 2 chữ Tử Lộ 子 路 và Thúc quyến 絹 phần bộ túc y hệt như chữ đang khảo sát.

Đến đây có thể kết luận chính tự của chữ đang khảo sát là một chữ bộ “túc” và thiên bàng chữ “quả” 踝.

Vừa khéo là văn bản CNNÂ còn có một chữ 踝 thứ 2 nữa. Đó là chữ 踝 ở tờ 13a. Tra tìm ở vị trí tương ứng, thấy TXNL đọc chữ này là Khỏa và phiên cả câu là:

"Cước khỏa: hai chân con khoai".

Không rõ chữ 踝 mà tác giả phiên là Khỏa có căn cứ theo từ điển nào hay không, nhưng tôi tra thấy Khang Hi cho âm của Quảng Vận là Hồ ngõa thiết = Hỏa.

Đề phòng còn có âm khác nên phải tìm cả trong Ngọc thiên - cũng vẫn là Hồ ngõa thiết. - Tất cả đều cho âm Hán Việt là Hỏa.

Đến đây xin thể hiện toàn vẹn chữ Hỏa viết kiêng húy: 踝 ®

Và đọc lại hoàn chỉnh cả 2 câu có chữ "踝 hỏa" như sau:

Tờ 13 a:

踝: 真 昆 

Cuớc hỏa: Hai chân con khoai

Tờ 33a:

絲: 奄 絲 黃 卒 牢

Hỏa ti: ươm dã tơ vàng tốt sao !

Vậy Hỏa là tên húy của ai?

Việc khảo cứu chữ húy trong CNNÂ tiến đến đây rồi, nhưng dường như bị khựng lại vì chưa biết đó là tên húy của vị vua chúa nào. Là người đã khảo sát nghiên cứu chữ húy của các triều đại Việt Nam tôi phải tự lấy làm lạ là tại sao lại chưa bao giờ thấy chữ húy này? Húy triều Nguyễn thì không phải, chú ý nhiều vào giai đoạn triều Lê và cả Mạc nữa vì kiểu viết cùng kiểu với chữ húy triều Lê như đã dẫn trên. Điểm lướt qua cả: Lê sơ, Lê Trung hưng đã đọc những bi ký thư tịch nào, phả hệ các đời của vua Lê chúa Trịnh, của nhà Mạc v.v… thấy không thiếu sót mảng nào. Đời Lý - Trần thư tịch bi ký không nhiều như đời sau nên khảo đọc cũng kỹ. Rồi một hôm chậm rãi nhẩm kiểm lại: Ngô - Đinh - Lê - Lý - Trần… Thông thường sắp lướt qua để nhẩm đến triều Lê, tôi chợt đếm đến Hồ. Và, lần đầu tiên tôi nhận ra rằng chúng ta chưa có một chút tri thức nào về chữ húy đời Hồ!

3. Phả hệ nhà Hồ và chữ húy triều Hồ

Sơ đồ dưới đây căn cứ vào mấy bộ Quốc sử - chủ yếu vẫn là Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) và cuốn sách của Hồ Nguyên Trừng - tạm dựng như trên để theo dõi. Nhưng nhìn vào đó vẫn không thấy chữHỏa ở đâu!

Kiên trì đọc lại tìm lại. Tôi phải bật người ngồi thẳng khi thấy chữ Hỏa vốn đã nằm ngay trong Toàn thư nhưng vì ghi phụ vào trong kỷ Thiếu Đế nên đọc qua ít khi để ý.

Qua nguồn thư tịch, chúng tôi phác dựng phả hệ nhà Hồ như sau:

Bản dịch:

“... Đặt quốc hiệu là Đại Ngu, trở lại họ Hồ, chưa đầy một năm thì truyền ngôi cho là Hán Thương. Hán Thương tên cũ là Hỏa, tiếm ngôi được hơn 6 năm. Sau hai cha con đều bị người Minh bắt”.

Nguyên văn chữ Hán: (Xem kỹ ở trang chính và vùng phóng to chúng ta thấy rõ chữ "hỏa 火" đã được khắc in một cách khác thường).

Viết biến dạng ít nhiều là một cách thể hiện kiêng húy - 火 ở đây là tên húy của Hồ Hán Thương.

Nhưng tại sao bộ sử do Quốc sử viện đời Lê biên soạn, khắc in niên hiệu Chính Hòa lại có chữ kiêng húy của Hồ Hán Thương ?

Đây là lần đầu tiên trong văn bản Toàn thư tôi gặp trường hợp rất đặc biệt này. Chúng ta đều đã biết Toàn thư bản Chính Hòa không kiêng tên húy của bất cứ vua chúa nào, kể cả các vua chúa đời Lê Trung hưng khi in sách. Hồ Hán Thương có gì đặc biệt để sử đời Lê phải kiêng húy ? Vậy rất lạ, nhưng hiểu ngay lý do: Chúng ta biết rằng khi Ngô Sĩ Liên, Phan Phu Tiên… biên soạn Toàn thư đã sưu tập tham khảo Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và các sử liệu khác thuộc các đời Trần - Hồ. Trong số tư liệu ấy có những văn bản đời Hồ viết kiêng húy chữ Hỏa. Khi đem vào bản thảo Toàn thư, theo nguyên tắc chung, người soạn cần biên tập khôi phục nguyên dạng không kiêng húy cho thống nhất toàn bộ sách. Nhưng vì chữ Hỏa khá thông dụng, mà chữ nói trên so với chữ thảo cũng không khác mấy, cho nên bỏ qua hoặc bỏ sót không xử lý. Người sao sau chép rất cẩn thận để làm sử cho nên thấy nguyên văn như thế vẫn cứ trung thành truyền chép cho đến tận khi khắc in. Vậy là do một sơ sót trong bản in bộ Quốc sử mà ta thu được một mẫu chữ Hỏa 火 tên húy của Hồ Hán Thương theo kiểu đã viết kiêng húy. ( Đại Việt sử ký tục biên, bản in đời Tây Sơn năm 1800 chép và khắc nhầm thành chữ Đại 大).

Như thế ta có 2 mẫu chữ kiêng húy chữ Hỏa viết kiêng húy ® 火 và 踝 ® , vậy chữ nào là chính tự tên thật của Hồ Hán Thương?

Ở trên đã tra âm chữ 踝, đến đây cũng phải tra âm chữ 火 cho chắc chắn: Quảng vận cho âm đời Đường Tống của chữ 火 là:

Có một chút dị biệt: chữ Hỏa 踝: 胡 瓦 切, 上, 馬, 匣 thuộc thanh mẫu "hạp 匣"; còn chữ Hỏa 火: 呼 果 切, 上, 果, 曉 thuộc thanh mẫu "hiểu". Nhưng dị biệt ấy không quan trọng: “Hiểu thanh hạp trọc, nhưng sang Việt Nam thanh trọc nhập một và đều là nguồn gốc của các âm Hán Việt có phụ âm H (xem sách của GS. Nguyễn Tài Cẩn(4)). Như vậy ta có thể xác định âm Hán Việt thời Đường Tống của 踝 (mắt cá chân) và 火 (lửa) đều là Hỏa và đó là 2 từ hoàn toàn đồng âm.

CNNÂ như đã nói trên, có 2 chữ 踝, nhưng chữ ở tờ 13a viết nguyên dạng không kiêng, chỉ ở tờ 33a từ Hỏa ti viết kiêng húy gia dạng bộ 4 nét gãy(). Đó là cách viết trân trọng, có tính chính thức mà cách vài chục năm sau người đầu đời Lê cũng đã dùng để viết chữ kiêng húy Lê Thái Tổ (như ta đã thấy trong Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh hay trong Bia Vĩnh Lăng chữ  do Nguyễn Trãi soạn). Vì lý do đó tôi xác định chính tự tên húy của Hán Thương là Hỏa 踝 mà chữ Hỏa 火 là chữ đồng âm. Văn bản Toàn thư căn cứ theo một tài liệu nào đó có thể thuộc nguồn tại triều đình nhà Hồ, rất gần với nhà vua nên kiêng húy cả chữ chính tự và chữ đồng âm mà chữ ta gặp thuộc diện vừa viết biến dạng vừa dùng chữ đồng âm để tránh chữ tên chính tự. Còn văn bản CNNÂ tuy có thể cũng in tại kinh đô Thăng Long nhưng không phải là sách vở văn bản của triều đình nên người soạn không viết kiêng húy chữ đồng âm. Các chữ Hỏa (lửa) trong CNNÂ đều không viết kiêng húy.

Xác định đúng chữ đúng người rồi, đến khâu cuối cùng: tìm cứ liệu độc lập để chứng minh kiêng húy chữ Hỏa trong văn bản.

Trong điều kiện sách vở văn bia đời Hồ cực hiếm muốn tìm cho ra một chữ Hỏa đã là khó - mà đó lại phải là một địa danh hay nhân danh thì may ra mới còn vết tích kiêng húy - nhưng thực cũng còn một dịp may: Đại Việt sử lược ở ta cũng có, nhưng kho tùng thư sách Hán cổ từ lâu ở Thư viện Khoa học Xã hội chưa cho đọc. Năm 1987, GS. Trần Kinh Hòa là học giả nghiên cứu sâu về sử Việt Nam đã chú giải và xuất bản sách ấy tại Tokyo (khoảng 1987). Bạn nghiên cứu người Pháp là bà GS. Salmon có tặng tôi một cuốn. Trong lúc tôi không mấy hy vọng lật giở quyển ấy - thì thật may - nhờ đối chiếu chú giải rất kỹ càng của Trần Kinh Hòa mà tôi không mất công mấy cũng thấy ngay điều đang cần:

Sử ghi vua Lê Đại Hành năm Thiên Phúc 5 (984) cho làm nhiều cung điện nhà cửa ở kinh đô Hoa Lư, dựng điện Bách Bảo Thiên Tuế ở núi Đại Vân để làm nơi coi chầu, sau đó lại xây ngôi lầu gọi là lầu Đại Vân 大 雲. Cả Toàn thư (BK1-16b) và Cương mục đều ghi tên núi và tên lầu là Đại Vân. Đại Việt sử lược có những chi tiết ấy, nhưng ghi là Hỏa Vân sơn 火 雲 山 và Hỏa Vân lâu 火 雲 樓. Điều đó có nghĩa là: Trần Chu Phổ đời Trần khi soạn Đại Việt sử lược tên núi và tên lầu ấy ở Hoa Lư vẫn gọi là Hỏa Vân. Đến đời Hồ Hán Thương do kiêng húy đồng âm với tên cũ của vua thứ hai triều Hồ là Hỏa mà được đổi tên núi Hỏa Vân đổi làm núi Đại Vân, lầu Hỏa Vân thành lầu Đại Vân. Đến đầu đời triều Lê, các tác giả Toàn thư theo tên đã quen gọi và văn bản ghi theo tên đã kiêng húy là Đại Vân mà chép tên núi và tên lầu là Đại Vân. Tư liệu văn bản này là một bằng chứng một lần nữa xác minh tên húy của Hồ Hán Thương là Hỏa và việc kiêng húy chữ Hỏađã thực sự thi hành khi ông làm vua nước ta. Từ đầu đời Trần chúng ta đã biết đối với các địa danh và nhân danh không chỉ kiêng chữ húy chính tự mà phải kiêng cả các từ đồng âm. Chính tự tên thật của Hồ Hán Thương là Hỏa đã được viết kiêng húy như đã thấy trong CNNÂ, còn địa danh và nhân danh có chữ Hỏa đồng âm cũng phải thay đổi như trên đã dẫn (火 雲 Hỏa Vân ® 大 雲Đại Vân). Đó cũng là bổ sung mới của tôi về định lệ kiêng húy của giai đoạn trước nay thiếu các tư liệu văn hiến nên còn phải bỏ trống, nay thông qua việc nghiên cứu niên đại năm in của CNNÂ mà đồng thời hoàn thành được.

Quý vị và các bạn đồng nghiệp đã rõ cả rồi: Hồ Hán Thương là em Hồ Nguyên Trừng nhưng là con của Hồ Quý Ly và bà công chúa Huy Ninh nên sớm được vua cha truyền ngôi cho và ông lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiệu Thành đúng vào năm Tân Tị (1401). Vâng, đó đúng là năm Tân Tị - năm khắc in CNN mà tôi và có lẽ cả nhiều bạn đồng nghiệp mấy chục năm này hằng mong có ngày xác minh giải mã cho được. Việc chứng minh giải mã đó đến đây tôi đã thực hiện xong.

4- Kết luận

Di sản Hán Nôm của Việt Nam dẫu không bao giờ có thể có được đầy đủ như đã có trong quá khứ nhưng văn khắc bia chuông số lượng sưu tập được đáng kể là phong phú. Về thư tịch chữ Hán chữ Nôm, những năm gần đây thỉnh thoảng có phát hiện thêm những cuốn mới. Nhưng đến nay nguyên bản sách in hiện có trong nước chỉ từ thế kỷ XVIII về sau là tương đối nhiều, còn thuộc thế kỷ XVII có chưa đầy một chục. Đầu thế kỷ XVII có 1 cuốn, nhưng từ thế kỷ XVI trở về trước thì các thư viện trong nước hiện nay đều không có. Như một cuộc Maraton về mốc xưa của lịch sử thư tịch, cuốn CNNÂ đã đứng ngay ở năm đầu tiên của thế kỷ XV. Nó vẫn đứng ở mốc ấy từ lâu trên giá của EFEO tại Hà Nội, nhờ cụ Thúc Ngọc giới thiệu mà nó trở thành danh thư, được đánh giá là một cuốn từ điển Hán Nôm cổ nhất, rất có giá trị của nước ta - nhưng vì chưa xác định được năm in nên nó chỉ mới được nói đến một cách dè dặt là ấn phẩm khoảng thế kỷ XVII - muộn hơn tuổi thực của nó ngót 3 thế kỷ ! Bài khảo chứng của tôi trong khi xác định được năm in chính xác của nó đồng thời cũng khiến cho niên đại triều Hồ trở thành niên đại hiện còn một nguyên bản sách in cổ nhất của nước ta (1401).

Riêng vấn đề tác giả của CNNÂ chuyên đề của tôi chưa trực tiếp thảo luận đến. Nhưng khảo chứng của tôi là độc lập và trực tiếp từ văn bản gốc, các kết quả đều lần lượt có các bằng cứ chứng minh CNNÂ là sách in năm 1401 đời nhà Hồ, thì đáp án cũng đã rõ là nó không có quan hệ gì với bà quận chúa Trịnh Thị Ngọc Trúc thế kỷ XVIII.

Những vấn đề liên quan khác như có hay không về Sĩ Nhiếp, về sự tương thích giữa niên đại 1401 với hệ thống chú âm trong CNNÂ, về địa danh tên nước Phất Lang v.v… Mỗi vấn đề đó đều rất phức tạp, tôi đã và đang tiếp tục nghiên cứu, hiện đã có những kết quả rất bất ngờ và đột xuất, khi có điều kiện sẽ xin tiếp tục cuộc thảo luận.

N.Đ.T

CHÚ THÍCH:

(1) Trần Văn Giáp: Lược khảo về nguồn gốc chữ Nôm. Nghiên cứu Lịch sử , số 127, tháng 10-1969.

(2) - Hoa Bằng: Góp ý kiến với ông bạn Trần Văn Giáp về bài Nguồn gốc chữ Nôm. NCLS, 1971, số 140, tr.57- 62

- Nguyễn Tài Cẩn: Cứ liệu ngữ âm lịch sử với vấn đề thời kỳ xuất hiện của chữ Nôm. Ngôn ngữ, 1971, số 1. In lại trong: Một số vấn đề về chữ Nôm. Nxb. Đại học và THCN, H. 1985, tr.86-110.

- Đào Duy Anh: Chữ Nôm - nguồn gốc cấu tạo diễn biến, Nxb. KHXH, H. 1975, tr.115.

- Lê Văn Quán: Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1981.

Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, Nxb. KHXH, H. 1985, 260 tr.

(3) Xem Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, E.Poisson dịch ra tiếng Pháp: Les caratères interdits au Vietnam à travers l'Histoire, Nxb. Văn hóa, H. 1997. 480 tr.

(4) Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Tái bản có sửa bổ sung. Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2000, tr.221.

Post by: Vu Nguyen HNUE
15-10-2020