|
Có hiện tượng từ địa phương, dạng phát âm địa phương phản ảnh vào chữ viết như vậy, thì khi phiên ra Quốc ngữ, chúng ta nên phiên như thế nào? Đứng trước câu hỏi này, theo ý chúng tôi, trước hết cần phân tích sự khác nhau giữa ba trường hợp 1, 2, 3. Xét về mặt văn tự, như trên đã nói, 1, 2, đứng về một phía, đối lập hẳn với 8; đứng về mặt ngôn ngữ thì 2, 3 lại đứng về một phía, đối lập hẳn với 1. Khi phiên ra Quốc ngữ, chúng ta không thể không tôn trọng ý muốn của tác giả đã thể hiện ra ở chữ viết, chúng ta không có quyền làm người hiệu đính chữa các từ địa phương tác giả đã dùng ra thành từ phổ thông: ở trường hợp 1, dứt khoát chúng ta phải bám sát chữ viết để phiên. Nói một cách cụ thể, những từ như xuê, va, sui gia, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng trong văn bản Nôm thì ta không thể không đưa vào trong bản Quốc ngữ. ở trường hợp 3 tình hình hoàn toàn ngược lại. Đứng trước câu:
Trước đèn xem truyện Tây Minh
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le
Chúng tôi nghĩ cứ nên phiên “nhân” chứ không phiên “nhơn” theo cách đọc Nam bộ. Phiên như vậy không phải là không tôn trọng nguyên bản của tác giả, bởi lẽ ngay bản thân tác giả lắm khi cũg đã chấp nhận cách phát âm phổ thông. Ví dụ:
Lão tiền liền bước lại gần
Thiệt là một gã văn nhân mắc nần.
Hơn nữa Nguyễn Đình Chiểu vốn viết bằng chữ Nôm. Mà trong văn bản Nôm, dầu có đọc nhơn, thì nhơn vẫn viết thống nhất như nhân trong toàn quốc: Vậy phiên nhân không có gì là sai trái. ở trường hợp 2 ta có tình hình trung gian giữa 1 và 3: bám sát chữ viết thì ta sẽ phiên như ở 1, tôn trọng ngôn ngữ thì ta sẽ phiên như ở 3, chúng tôi nghiêng về hướng thứ hai. Nghiêng về hướng này tuy không bám sát chữ viết (hiểu theo nghĩa hẹp) nhưng vẫn là tôn trọng nguyên tắc của nền văn tự Nôm, nói chung. ở nhiều văn bản khác, chúng ta đã chấp nhận có thể đọc bay khi có thanh phù bi cũng như khi có thanh phù bái, phi, thì ở đây cũng không có gì ngăn cản chúng ta, không cho phép chúng ta có thể đọc đặt khi có thanh phù đặc cũng như khi có thanh phù đạt, hoặc có thể đọc với khi có thành phù giới cũng như khi có thanh phù bối.
Chúng tôi không có ý định phổ thông hóa trong mọi trường hợp . Các tác giả sáng tác ở địa phương mà có sử dụng một số biến thể dạng phát âm địa phương, đó là một điều tự nhiên, dễ hiểu. Giữ lại một số dạng phát âm địa phương ở những chỗ thật cần thiết (như những chỗ cần cần gieo vần chẳng hạn), đó là một giải pháp đúng đắn, không ai chối cãi. Ví dụ:
Làm trai trong cõi người ta
Trước lo báo bổ sau là hiển vang
Tôn sư khi ấy luận bàn(6)
Giữ lại với một tỷ lệ như vậy cũng hay, vì đó cũng là một cách để giữ sắc thái địa phương cho tác phẩm. Nhưng nhìn chung, thì hai trường hợp 2, 3 đều nên phiên theo cách đọc toàn quốc cả. Chúng ta không nên quên rằng những tác giả như Nguyễn Đình Chiểu đều là những tác giả của toàn dân. Lục Vân Tiên là một tác phẩm của toàn dân. Giữ lại quá nhiều cách phát âm địa phương, giữ ở những chỗ hoàn toàn không cần thiết chỉ làm hại tác giả, tác phẩm, hạ thấp vai trò và tác dụng của tác giả, tác phẩm đối với toàn quốc. Đó là chưa kể một điều: quá trình thống nhất ngôn ngữ càng ngày càng cách lý mà càng ngày càng xích lại gần ngôn ngữ phổ thông của toàn quốc. Kiến nghị phiên trường hợp 2, 3 ra chữ Quốc ngữ theo hướng như trên chính cũng là đón trước cái xu thế chung đó của người đọc ở Huế và Nam bộ, và tích cực góp phần thúc đẩy cho cái xu thế đó.
III) Trên đây, ở mục I, khi bàn đến chủ trương phiên theo âm hiện đại, chúng tôi có đề cập đến hai trường hợp 3 và 4, trường hợp một từ xưa có, nay đã mất trong phạm vi ngôn ngữ toàn dân, chỉ may mắn còn được giữ lại ở một đôi thổ ngữ nào đấy và trường hợp này đã mất hoàn toàn không còn lưu lại vết tích gì trong tiếng Việt hiện đại. Hai trường hợp này chính là hai trường hợp thường gây ra nhiều khó khăn nhất khi đọc các văn bản Nôm cổ. Vì vậy cũng nên thảo luận thêm về hai trường hợp này, để tìm cách khắc phục dần các khó khăn.
Như trên đã nói, đây là trường hợp những từ cổ đã chết, chết hoàn toàn hoặc hầu như hoàn toàn. Những từ này dứt khoát không thể nào còn nằm ở trong bộ nhớ của tuyệt đại đa số hay của toàn thể cộng đồng người Việt chúng ta nữa. Đứng trước những từ như vậy mà cứ ngồi bóp trán suy nghĩ cố gắng tìm ra cho được một cách đọc sao cho có vẻ ổn thỏa, hiểu được - như trước nay nhiều người chúng ta quen làm - thì rõ ràng đó là làm một việc làm không thể nào đưa đến kết quả. Có kết quả làm sao được, khi cứ cố gắng đi tìm ở trong trí óc một cái vốn không còn có ở trong trí óc nữa; cho nên vấn đề của chúng ta ở đây phải là “biết mình không biết” để rồi cố gắng vạch ra được những bước đi chắn chắn, dẫn chúng ta dần dần tiến đến chỗ tìm ra được cái không biết đó. Theo ý chúng tôi có thể tạm chia thành ra ba bước, và ba bước đó như sau:
Bước 1: kiểm tra cách viết: Như mọi người đều biết, tình hình bảo quản văn bản thường có ảnh hưởng lớn đến việc đọc, việc phiên. Vì vậy, tốt nhất là nên mở đầu bằng việc kiểm tra, xét xem có chắc là ký hiệu văn tự được chép đúng, in đúng hay chép sai, in sai. Trong thực tế của công tác đọc Nôm, cả hai khả năng đó đều đã từng được gặp. Vì vậy, trên nguyên tắc, không thể gạt bỏ một khả năng nào. Nếu cho là đúng thì có thể bắt tay đi ngay vào việc khảo sát mặt âm, mặt nghĩa, mặt ngữ pháp. Nếu cho là sai, thì việc trước tiên lại phải cân nhắc biện luận, tìm mọi cách để quay trở lại cho được cái cách viết đúng đáng lý phải có… Cố nhiên, xét trên toàn bộ văn bản, thì xưa nay tỷ lệ những chữ viết đúng bao giờ cũng nhiều hơn hẳn tỷ lệ những chữ viết sai. Vì vậy, cũng nên tránh khuynh hướng sẽ gặp một trường hợp phức tạp, khó đọc nào là cũng đã vội nghĩ ngay đến chuyện chép sai, in sai.
Bước 2: Lập danh sách các khả năng đọc có thể chấp nhận được về mặt lý thuyết. Sau khi đã biết chắc chúng ta có trong tay những ký hiệu chép đúng, in đúng thì có thể bắt đầu ngay vào việc khảo sát mặt âm. Đi vào mặt này thì việc chủ yếu là phải nghiên cứu các thanh phù.
Dựa vào phụ âm đầu và vần của thanh phù trước hết nên vạch ra một sanh sách tối đa, gồm tất cả khả năng đọc của chữ. Ví dụ gặp một thanh phù như (liêu) chẳng hạn chúng ta thấy.
- Với phụ âm đầu “1”, có thể có 12 khả năng đọc L, R, TR, S, GI, CH, D, X, PH, T, TH, N.
- Với vần “iếu” có thể có 8 khả năng đọc: EO, EU, IEU, IU, AO, AU, ƯƠU:
- Như vậy tối đa chúng ta có đến 12 x 8 = 96 cách đọc để chọn lựa. Mà đó là chưa kể đến thanh điệu.
Danh sách tối đa tuy lớn, nhưng lại có thể chia thành nhiều loại có xác suất xuất hiện không đồng đều nhau. Chẳng hạn: Trong 12 khả năng đọc phụ âm đầu và 8 khả năng đọc bộ phận vần, trên đây ta thấy hay gặp nhất là các khả năng L, R, TR, S, EO, ÊU, IÊU, IU, còn ít có thể nhất là các khả năng T, TU, N, AU, ÂU, ƯƠU. Như vậy, có thể xếp LEO, LÊU, LIÊU, LIU, REO, RÊU, RIÊU, RIU; TREO, TRÊU, TRIÊU, TRIU, SEO, SÊU, SIÊU, SIU thành một loại, xếp TAU, TÂU, TƯƠI; THAU, THÂU, THƯƠU, NAU, NÂU, NƯƠU thành một loại thứ hai và xếp những trường hợp còn lại thành một loại thứ ba. Trong nghiên cứu không nên có định kiến trước, coi trọng một loại nào, vì lắm khi thực tế có thể đưa chúng ta đến những cái hết sức bất ngờ. Nhưng dầu sao, tiến hành được một sự sắp xếp các khả năng dọc theothứ tự, đi từ trường hợp có xác suất xuất hiện cao nhất đến trường hợp có xác suất xuất hiện thấp nhất cũng là một việc làm rất hữu ích(7).
Bước 3: Phân tích văn cảnh để chọn cách đọc tối ưu. Xuất phát từ danh sách tối đa trên đây, nhiệm vụ của chúng ta là phải đi đến chõ cuối cùng chỉ cọn lấy một cách đọc, và chỉ một mà thôi. Cách đọc tối ưu đó phải là cách đọc phù hợp nhất so với mọi yêu cầu của văn cảnh.
- Yêu cầu về mặt bằng trắc, về mặt vần, nếu đó là từ nằm ở vị trí có đối, có gieo vần.
- Yêu cầu về mặt ngữ pháp, về mặt từ loại, về mặt chức vụ cú pháp, về mặt khả năng kết hợp…
- Cũng như yêu cầu về mặt ngữ nghĩa, về mặt văn phong.
Công việc chủ yếu trong bước 3, như đã thấy là công việc khảo sát các yêu cầu này. Nhưng đây lại là một việc làm hàng ngày, rất quen thuộc đối với giới nghiên cứu chữ Nôm, cho nên thiết nghĩ cũng không có gì cần phải bình luận nhiều. Đáng nhắc lại chăng, theo ý chúng tôi, chỉ là mấy điểm nhỏ sau đây được rút ra từ kinh nghiệm của nhiều cuộc tranh luận.
Điểm 1: Không nên chia một cách quá tách bạch các mặt ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Tạm chia ra ba mặt chỉ là để tiện cho việc trình bày. Thực ra, trong quá trình đọc Nôm, phiên Nôm, các mặt đó thường xoắn xuýt lấy nhau, khi nghĩ đến mặt này cũng không thể nào hoàn toàn tách rời hẳn với việc nghĩ đến mặt kia.Một lần, đọc bia Sùng thiện bi ký đời Trần (1331) chính trong quá trình phân tích ngữ pháp, xét đặc điểm cấu tạo tên riêng người Việt, thấy tên Phạm thị Ma Lôi quá khác với các tên Phạm Thị Ban, Nguyễn Thị Mão gần đó nên chúng tôi đã đi đến giả thuyết coi Ma Lôi chỉ là một âm tiết có ML ở đầu. Như vậy, là kiến nghị về ngữ âm nhưng lại xuất phát từ ngữ pháp.
Điểm 2: Bước khảo sát ngữ pháp, ngữ nghĩa, nên đặc biệt coi trọng việc tra cứu các tài liệu cổ: từ điển A. de Rhodes, cách dịch trong Truyền kỳ mạn lục giải âm, các tài liệu Quốc ngữ thế kỷ 17. Nhiều sai sót đáng tiếc trước đây như việc không biết nghĩa của từ mắng(=nghe) và đọc lầm thành mảng (trong tượng mảng, mảng nghe); việc không biết nghĩa cổ của từ nghĩ (=dễ) và giải thích sai bốn câu trong bài tựa cuốn Chỉ nam ngọc âm.
Vốn xưa làm Nôm xe chữ kép
Người mới học khôn biết khôn xem
Bây giờ Nôm dạy chữ đơn
Cho người mới học nghĩ xem nghỉ nhuần
hoặc không biết xưa từ đá có dạng song tiết là đá (= hòn đá) nên giải thích sai câu thơ Nguyễn Trãi:
Dẫu người đi là đá mòn
v.v…đều bắt nguồn từ chỗ không tra cứu các từ điển cổ cả…
Điểm 3: Nói đến việc nghiên cứu văn cảnh, không nên chỉ bó hẹp trong việc khảo sát các mặt chỉ liên quan đơn thuần đến cấu trúc bên trong của ngôn ngữ. Phải nghĩ đến cả nhiều mặt khác, có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự ra đời của văn bản hay đến các đặc điểm thì không thể nhận diện được những trường hợp nhưthuấn nhà đa (=sunyât)(8), viết vô (= vít vô). y.ca lê gia (= église)… Không nghĩ đến xuất xứ của tác phẩm (tác phẩm viết ở Nam Bộ) thì cũng khó lòng đọc ngay được những từ như vùng (ghi bằng chữdụng) với (ghi bằng chữ giới) hoặc chun/ra/ (ghi bằng chữ chung)… có một số chữ, trong những trường hợp đặc biệt, có thể cho phép chúng ta đọc hai cách hầu như tương đương, đọc vụ hay đọc mùa, đọc phòng hay đọc buồng… Không nghĩ đến phong cách chung chi phối toàn văn bản (phong cách hơi bác học hay phong cách hơi dân dã) thì những trường hợp này cũng khó lòng đoán định được nên ngả về cách đọc nào…
*
**
Trên đây là một số suy nghĩ của chúng tôi, xung quanh vấn đề phương hướng đọc Nôm, phiên Nôm, rút ra từ thực tế một số cuộc tranh luận. Nhưng đó cũng chỉ mới là một số suy nghĩa bước đầu. Công tác đọc Nôm, phiên Nôm là một công tác hết sức phức tạp, nhất là khi đi sâu vào chi tiết của từng trường hợp cụ thể. Nhiều vấn đề mới đang được đặt ra. Nhiều vấn đề cũ đang còn treo lại chưa được giải quyết ngã ngũ. Đứng trước tình hình đó, theo ý chúng tôi, chỉ có dựa vào trí tuệ tập thể, mỗi người theo dõi, suy nghĩ về một vài khía cạnh, thì mới mong một ngày gần đây, có thể dần dần đúc kết lại được, đề lên thành một số bài học kinh nghiệm về phương hướng và phương pháp.
CHÚ THÍCH
(1) Công tác đọc các văn bản Nôm cổ để tìm hiểu nội dung của chung.
(2) Xìm môi xeo tạp poóng plăng là cách phục nguyên của ông Nguyễn Bạt Tuỵ
(3) Về những phát hiện như nghỉ, cang la, tu rích, xin xem thêm Trần Xuân Ngọc Lan - Sơ bộ khảo sát quyển từ điển Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, tóm tắt luận án phó tiến sĩ, Hà Nội. 1982.
(4) Những dẫn chứng về chữ Nôm ở Huế này đều rút từ cuốn Việt sử diễn nghĩa. Xin xem bài “Việt sử diễn nghĩa một bộ diễn ca dáng chú ý’ của Phan Hứa Thuỵ, Tạp chí Văn học số 4, 1983.
(5) Những dẫn chứng về chữ Nôm Nam bộ này đều do cụ Vũ Văn Kính trình bày trong bản báo cáo khoa học “Sơ lược về chữ Nôm Nam bộ”
(6) Xin xem thêm bài: Một số ý kiến về vấn đề sắc thái ngôn ngữ địa phương và văn bản Lục Vân Tiên, Dương Từ – Hà Mậu (Hoàng Dũng, tạp chí Ngôn ngữ, số 4/1982).
(7) Việc tính toán số lượng khả năng đọc và xác suất xuất hiện của mỗi khả năng đọc “phải được đặt cơ sở trên số liệu thống kê các tiền lệ đã phát hiện được”. Những con số chúng tôi nêu trên đây đều căn cứ vào kết quả thống kê hiện có.
(8) Trường hợp thuấn nhã đa (=sunyata) nêu trên đây chúng tôi đã được trong một bản báo cáo khoa học có nhan đề là “Nguyễn Trãi và những âm phù của phụ âm đầu kép trong chữ Nôm” của ông Lê Hữu Mục. Tác giả đã có nhã ý gửi cho chúng tôi xem. Nhân đây chúng tôi xin thành thực cảm ơn tác giả.
NGHIÊN CỨU HÁN NÔM SỐ 1 NĂM 1985
|