Từ là một thể loại văn học Trung Quốc đã được du nhập vào Việt Nam. Đây là một thể loại văn học gắn liền với âm nhạc và diễn xướng. Để sáng tác, người nghệ sĩ phải chiểu theo thanh luật của từ điệu để điền từ. Sự kết hợp hài hoà giữa ngôn từ và nhạc tính để lay động lòng người chính là điểm đặc sắc của từ khúc. Để làm được điều đó không chỉ cần đến tài văn chương thường được sĩ tử xưa dụng công rèn luyện mà còn cần tới một tâm hồn nghệ sĩ với cảm quan âm nhạc tinh tế - điều mà không phải bất kỳ ai cũng có được(1).
Người tác từ đầu tiên trong lịch sử nước ta là nhà sư Khuông Việt với tác phẩm Ngọc lang quy nhằm tiễn sứ thần Tống triều Lý Giác về nước năm 987. Tuy nhiên cho đến thời Lê Trung hưng, từ khúc vẫn chưa phải là một thể loại văn chương được phổ biến rộng rãi: "việc tác từ ở giai đoạn này chỉ là sự thể nghiệm một thể loại văn học khác bên cạnh các thể loại thơ ca truyền thống”(2). Cho tới nay chúng ta chỉ tìm được bảy tác giả và 58 tác phẩm từ trong thời kì này(3).
Trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu hai tác giả mới với 19 tác phẩm từ chưa từng được biết đến trong thời Lê Trung hưng. Đây là tác phẩm của một nhóm bạn thơ phong lưu tài tử. Trong đó có một nhân vật khá nổi tiếng trên văn đàn. Đó là văn sĩ Đặng Trần Côn. Khoảng năm Ất Mão 1735, Đặng Trần Côn cùng ba người bạn là 楊監生Dương Giám sinh và hai tài tử ở đất Sơn Tây 阮紫頷 Nguyễn Tử Hàm và 阮玉蟾 Nguyễn Ngọc Thiềm liên cú thù tạc, xướng họa về nhiều đề tài khác nhau theo hai thể: thơ và từ. Chúng tôi đã gắng công tra cứu song trừ Đặng Trần Côn ra thì không thể tìm được bất cứ một thông tin nào về những người còn lại.
Nhóm bạn này thường ưa đi chơi đêm, lập hội thơ liên cú thù tạc, xướng họa. Theo đúng thể lệ trong hội thơ của vườn Kim Cốc, người nào không làm được thơ sẽ bị phạt uống ba đấu rượu. Đây là một nếp sinh hoạt rất tao nhã và thú vị.
Tác phẩm của họ được chép trong phần 撫掌新書Phủ chưởng tân thư, cuốn 名言雜著 Danh ngôn tạp trước kí hiệu A.1073 đang được lưu trữ trong kho sách Hán Nôm. Cho tới giờ, sách vẫn được bảo quản trong điều kiện rất tốt. Sách dày 260 trang, kích cỡ 30x20cm. Phần Phủ chưởng tân thư dài 16 trang được chép bằng chữ khải đẹp, rõ ràng. Mỗi trang có 9 dòng, mỗi dòng có khoảng 18 chữ.
Sách có thể chia làm hai phần: phần đầu chép các tác phẩm từ của Đặng Trần Côn và Nguyễn Ngọc Thiềm, phần sau chép hai bài thơ xướng họa của cả bốn người. Tuy nhiên chủ yếu tập sách chép tác phẩm của Nguyễn Ngọc Thiềm và Đặng Trần Côn gồm 17 bài từ trên 15 trang đầu.
Phần từ chỉ có Nguyễn Ngọc Thiềm và Đặng Trần Côn sáng tác theo bốn đề mục sau:
* 春夜懷情人Xuân dạ hoài tình nhân: gồm bốn bài từ theo điệu 雨中花Vũ trung hoa. Nguyễn Ngọc Thiềm và Đặng Trần Côn mỗi người làm hai bài.
*戎婦寄征夫Thú phụ ký chinh phu: gồm bốn bài từ. Hai bài đầu theo điệu 滿庭芳Mãn đình phương. Nguyễn Ngọc Thiềm và Đặng Trần Côn mỗi người làm một bài. Hai bài sau theo điệu 望江湖Vọng giang hồ. Hai người mỗi người làm một bài.
*征夫寄還Chinh phu ký hoàn: gồm có bảy bài.
Bốn bài đầu theo điệu 望江南Vọng Giang Nam. Đặng Trần Côn làm 3 bài, Nguyễn Ngọc Thiềm làm một bài. Ba bài sau theo điệu 長相思Trường tương tư. Đặng Trần Côn làm một bài, Nguyễn Ngọc Thiềm làm hai bài.
*奪錦榮歸Đoạt cẩm vinh quy: gồm hai bài từ theo điệu 南鄉子Nam hương tử. Đặng Trần Côn và Nguyễn Ngọc Thiềm mỗi người làm một bài.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, phần đông các bài từ này đều có tính không chuẩn xác khi so sánh với từ phổ. Tuy nhiên, nếu xét trên văn đàn thời Lê Trung hưng thì đây cũng không phải một hiện tượng gì đặc biệt(4).
Đề tài xướng vịnh thù tạc ở đây chỉ quanh quẩn chuyện mĩ nhân, tình ái. Đặc biệt ở đây ta đã bắt gặp 11 bài từ về chủ đề chinh phu, chinh phụ: Thú phụ kí chinh phu (người vợ có chồng đi lính thú gửi cho chồng), Chinh phu kí hoàn (người chồng đi chinh chiến gửi lại). Tác phẩm khắc họa khá thành công tình cảm sâu đậm của đôi vợ chồng trẻ phải chia lìa giữa buổi binh đao.
Người chinh phu ra đi với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, ôm mộng công danh. Chàng tuy nhớ thương vợ da diết song vẫn quyết chí xông pha dựng xây nghiệp lớn:
魂歸故里
身在重關
正名韁多絆
賊甲未殘
弧矢男兒多事
卿卿有鏡莫驚鸞
歸去也印大如斗
領與伊看
“Hồn quy cố lý
Thân tại trùng quan
Chính danh cương đa bạn
Tặc giáp vị tàn
Hồ thỉ nam nhi đa sự
Khanh khanh hữu kính mạc kinh loan
Quy khứ dã ấn đại như đấu
Lãnh dữ y khan “
(Hồn về chốn cũ
Thân tại quan san cách trở
Chính danh phải chịu nhiều điều ràng buộc
Quân giặc chưa tan
Nghiệp cung kiếm nam nhi nhiều phận sự
Vợ yêu chớ u buồn vì lẻ loi chiếc kính ở buồng loan
Khi trở về ấn lớn bằng cái đấu
Lĩnh về cùng xem)
Chinh phu kí hoàn - Đặng Trần Côn
Người vợ trẻ cũng ở nhà vò võ ngóng trông chồng nơi quan ải, tiếc thương cho tuổi xuân của mình:
夫君一去幾時還
魂夢乍知青海外
望眸不到玉門關
紅淚濕欄杆
心意苦
不奈朔風寒
料想黃雲征戰地
壯懷直擬斬樓欄
寧肯念花顏
“Phu quân nhất khứ kỉ thời hoàn
Hồn mộng sạ tri Thanh Hải ngoại
Vọng mâu bất đáo Ngọc Môn Quan
Hồng lệ thấp lan can
Tâm ý khổ
Bất nại sóc phong hàn
Liệu tưởng hoàng vân chinh chiến địa
Tráng hoài trực nghĩ trảm Lâu Lan
Ninh khẳng niệm hoa nhan ?”
(Phu quân một đi lúc nào trở lại
Giật mình chợt thấy hồn mộng ngoài cõi Thanh Hải
Mắt ngóng trông chẳng tới Ngọc Môn Quan
Lệ hồng ướt lan can
Tâm ý khổ não
Chẳng kể tới phong hàn
Liệu tưởng chốn chinh chiến mây vàng
Tráng sĩ trong lòng luôn tính chuyện chém giặc Lâu Lan
Há có nhớ tới gương mặt yêu kiều?)
Thú phụ kí chinh phu - Nguyễn Ngọc Thiềm
Chàng ra trận tính chuyện lập tước phong hầu, tận trung báo quốc. Trải qua bao gian hiểm không biết chàng có nhớ tới người vợ hiền lẻ loi chốn buồng loan hay không? Nàng nhớ thương tới đờ đẫn, si dại:
魂迷楚岫夢到秦關
祇黃昏又夜
明月初殘
穿尽燈前冷眼
幾迴把鏡泣孤鸞
腸斷兮憑誰担去
剖與君看
“Hồn mê Sở tụ, mộng đáo Tần quan
Kì hoàng hôn hựu dạ
Minh nguyệt sơ tàn
Xuyên tận đăng tiền lãnh nhãn
Kỷ hồi bả kính khấp cô loan
Trường đoạn hề bằng thuỳ đản khứ
Phẫu dữ quân khan”
(Hồn mê non Sở, mộng đến Tần quan
Hết hoàng hôn lại tới đêm
Trăng sáng mới tàn
Gió rét xuyên vào tận trước đèn
Bao lần soi gương khóc than tấm thân cô độc
Đứt ruột chừ biết cậy nhờ ai đưa tới
Xin mổ ra cho chàng xem)
Thú phụ kí chinh phu - Đặng Trần Côn
Đêm ngày bị nỗi đau xé ruột giày vò, chàng có biết hay chăng?
Căn cứ theo số lượng tác phẩm, chúng ta có thể biết chắc Đặng Trần Côn và Nguyễn Ngọc Thiềm là đôi bạn thân thiết nhất trong nhóm. Hai người rất tự tin, kiêu hãnh về văn tài phun châu nhả ngọc của mình. Cũng có lúc họ bộc lộ khát vọng làm trai lập thân dương danh chốn khoa trường nhưng chung cục lại quay về với cảnh
雄筆掃長篇
占了儒林弟一仙
顯姓揚名新得意
翻螭陛擎天雨露鮮
白面稱青年
梓里香風引玉鞭
晝錦堂青
簫鼓沸喧喧
燭傍青娥共倒顛
“Hùng bút tảo trường thiên
Chiếm liễu nho lâm đệ nhất tiên
Hiển tính dương danh tân đắc ý
Phiên ly bệ kình thiên vũ lộ tiên
Bạch diện xứng thanh niên
Tử lí hương phong dẫn ngọc tiên
Trú cẩm đường thanh
Tiêu cổ phí huyên huyên
Chúc bạng thanh nga cộng đảo điên”
(Ngòi bút hùng tráng viết trường thiên
Chiếm được vị trí đệ nhất trong rừng nho
Tên họ lẫy lừng thật đắc ý
Thỏa thích dưới bệ rồng hưởng ơn mưa móc
Gương mặt thư sinh đáng mặt thanh niên
Khi trở về quê hương cưỡi ngựa tay cầm roi ngọc
Phủ đường lộng lẫy
Tiêu trống nổi vang rền
Bên đèn điên đảo cùng ả mày xanh)
Đoạt cẩm vinh quy - Nguyễn Ngọc Thiềm
Lả lơi cùng người đẹp trong nhịp phách sênh, thả hồn theo điệu hát - đó là việc đầu tiên họ muốn làm sau khi đề tên trên kim bảng. Những tác phẩm trên của hai người có thể coi như một bằng chững xác thực về nếp sinh hoạt tương đối phóng túng của họ: đi chơi kĩ nữ, hát ả đào. Đương thời ngoại thương phát triển, nếp sống đô thị hình thành một cách manh mún đã góp phần tạo điều kiện cho thú ăn chơi xa xỉ này trở nên phổ biến hơn. Tình ái dường như là một phần không thể thiếu trong cuộc đời họ - một niềm hạnh phúc khó có thể diễn đạt thành lời với biết bao nhớ nhung khắc khoải:
愛一刻千金
度一刻千金
….
獨寢也五更深
溫一半短衾
冷一半短衾
相思梦中尋
“Ái nhất khắc thiên câm
Độ nhất khắc thiên câm
…..
Độc tẩm dã ngũ canh thâm
Ôn nhất bán đoản khâm
Lãnh nhất bán đoản khâm
Tương tư mộng trung tầm”
(Yêu thương một khắc đáng giá ngàn vàng
Thời gian trôi đi một khắc đáng giá ngàn vàng
….
Một mình trên chiếc giường năm canh dài dằng dặc
Ấm nửa tấm chăn mỏng
Lạnh nửa tấm chăn mỏng
Tương tư tìm trong mộng)
Xuân dạ hoài tình nhân -Nguyễn Ngọc Thiềm
Bọn họ là những tài tử đa tình, đã để khá nhiều tâm sức vào chuyện gương lược phấn son.
Phải thẳng thắn nói rằng giá trị nghệ thuật của những tác phẩm trong tập Phủ chưởng tân thư có chỗ cũng chưa phải là điêu luyện. Vì được Đặng Trần Côn và Nguyễn Ngọc Thiềm viết ra trong lứa tuổi thanh xuân khi văn tài còn chưa đạt tới độ chín (năm Ất Mão 1735 - khi Đặng Trần Côn khoảng trên hai mươi tuổi). Đó là một thời thanh niên đầy nhiệt huyết, dùng văn chương kết bạn bốn phương.
Sau đây là phần phụ lục, chúng tôi đã cố gắng biên dịch tất cả các tác phẩm từ và in phần chữ Hán theo đúng văn bản gốc, hi vọng có thể đóng góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu từ điệu trong thời Lê Trung hưng.
PHỤ LỤC
撫掌新書
阮玉蟾
山西和茂
鄧陳琨
山南仁睦
春夜懷情人
蟾宮閨怨
皓娟娟月護松陰
愛一刻千金
度一刻千金
聽聲聲枕畔虫吟
訴一曲春心
傕一曲春心
獨寢也五更深
溫一半短衾
冷一半短衾
相思梦中尋
怕一唱翰音
醒一唱翰音
的淒涼愁思難禁
念一度沉沉
望一度沉沉
右仁睦
Phiên âm:
PHỦ CHƯỞNG TÂN THƯ
Nguyễn Ngọc Thiềm
Sơn Tây Hòa Mậu
Đặng Trần Côn
Sơn Nam Nhân Mục
Xuân dạ hoài tình nhân
Thiềm cung khuê oán
Hạo quyên quyên nguyệt hộ tùng âm
Ái nhất khắc thiên câm
Độ nhất khắc thiên câm
Thính thanh thanh chẩm bạn trùng ngâm
Tố nhất khúc xuân tâm
Thôi nhất khúc xuân tâm
Độc tẩm dã ngũ canh thâm
Ôn nhất bán đoản khâm
Lãnh nhất bán đoản khâm
Tương tư mộng trung tầm
Phạ nhất xướng hàn âm
Tỉnh nhất xướng hàn âm
Đích thê lương sầu tứ nan câm
Niệm nhất độ trầm trầm
Vọng nhất độ trầm trầm
Hữu Nhân Mục
Dịch:
CUỐN SÁCH MỚI ĐƯỢC HOAN NGHÊNH
Nguyễn Ngọc Thiềm
Làng Hòa Mậu, phủ Sơn Tây
Đặng Trần Côn
Làng Nhân Mục, phủ Sơn Nam
Đêm xuân nhớ người yêu
Nỗi oán hận phòng khuê chốn cung trăng
Ánh trăng sáng vằng vặc chiếu trên bóng tùng
Yêu thương một khắc đáng giá ngàn vàng
Thời gian trôi đi một khắc đáng giá ngàn vàng
Bên gối nghe tiếng trùng kêu rả rích
Động một khúc lòng xuân
Giục giã một khúc lòng xuân
Một mình trên chiếc giường năm canh dài dằng dặc
Ấm nửa tấm chăn mỏng
Lạnh nửa tấm chăn mỏng
Tương tư tìm trong mộng
Sợ một tiếng gà gáy
Thức dậy một tiếng gà gáy
Thực thê lương u sầu khó cản
Nhớ một độ buồn thăm thẳm
Ngóng trông một độ buồn thăm thẳm
Hữu Nhân Mục
冷清清月射書軒
惱一段熬煎
傕一段熬煎
恙嚷嚷意馬心猿
度一刻如年
捱一刻如年
相思也凭幽欄
听一聲杜鵑
怨一聲杜鵑
孤另也上牙床
撫一枕無眠
傕一枕無眠
竟何辰和你團圓
做一對因緣
好一對因緣
右和茂
Phiên âm:
Lãnh thanh thanh nguyệt xạ thư hiên
Não nhất đoạn ngao tiên
Thôi nhất đoạn ngao tiên
Dạng nhương nhương ý mã tâm viên
Độ nhất khắc như niên
Nhai nhất khắc như niên
Tương tư dã bằng u lan
Thính nhất thanh đỗ quyên
Oán nhất thanh đỗ quyên
Cô lánh dã thướng nha sàng
Phủ nhất chẩm vô miên
Thôi nhất chẩm vô miên
Cánh hà thì hoà nhĩ đoàn viên
Tố nhất đối nhân duyên
Hảo nhất đối nhân duyên
Hữu Hòa Mậu
Dịch:
Ánh trăng lạnh lẽo chiếu tới thư phòng
Ảo não như bị vò xé
Bồn chồn như bị băm xẻ
Âm thanh lao xao tâm hồn bất định
Một khắc trôi qua tựa một năm
Một khắc lần lữa tựa một năm
Tương tư dựa vào lan can buồn bã
Nghe một tiếng đỗ quyên
Oán hận một tiếng đỗ quyên
Cô đơn trên chiếc giường ngà
Vỗ chiếc gối đơn không ngủ được
Đập chiếc gối đơn không ngủ được
Biết bao giờ mới được cùng người đoàn viên
Làm một cặp nhân duyên
Một cặp nhân duyên hạnh phúc
Hòa Mậu
只个燈兒和个影
誰念我書齋孤另
況雨打梨花
柴門半掩
愁殺春閨永
鸞鳳佳期何日整
沉吟處寒風越冷
正無枕搗床梦見不穩
添却相思病
右和茂
和雨中調
Phiên âm:
Chỉ cá đăng nhi hoà cá ảnh
Thuỳ niệm ngã thư trai cô lánh
Huống vũ đả lê hoa
Sài môn bán yểm
Sầu sát xuân khuê vĩnh
Loan phượng giai kỳ hà nhật chỉnh
Trầm ngâm xứ hàn phong việt lãnh
Chính vô chẩm đảo sàng mộng kiến bất ổn
Thiêm khước tương tư bệnh
Hữu Hòa Mậu
Hòa vũ trung điệu
Dịch:
Chỉ có bóng đèn hòa với bóng ta
Ai nhớ đến ta nơi trai phòng cô đơn lạnh lẽo
Huống hồ mưa gió vùi dập hoa lê
Cửa sài nửa khép
Nỗi muộn phiền làm héo mòn tuổi xuân chốn phòng khuê
Đôi loan phượng bao giờ cho dến ngày sum họp
Ngồi trầm ngâm gió rét càng thêm lạnh
Giường không gối nằm trăn trở không yên giấc
Lại thêm mắc bệnh tương tư
Hòa Mậu
Theo điệu Vũ trung hòa
堦外銀蟾臨玉案
這裡最淒涼庭院
帶悶紗窻花主餓眼
不管神魂亂
猛聽霜宵寒怯雁
心病處一場離怨
想浪度時光
芳容瘦損
誤此風流漢
右仁睦
Phiên âm:
Giai ngoại ngân thiềm lâm ngọc án
Giá lí tối thê lương đình viện
Đái muộn sa song hoa chủ nga nhãn
Bất quản thần hồn loạn
Mãnh thính sương tiêu hàn khiếp nhạn
Tâm bệnh xứnhất trường ly oán
Tưởng lãng độ thời quang
Phương dung sấu tổn
Ngộ thử phong lưu Hán
Hữu Nhân Mục
Dịch:
Ánh trăng sáng từ ngoài thềm chiếu vào bàn ngọc
Trong nhà không khí thật thê lương
Song the rũ buồn, mắt hoa mệt mỏi
Chẳng quản thần hồn rối loạn
Nghe sương đêm rơi buốt lạnh khiến bầy nhạn kinh hồn
Tâm bệnh cả một trường li oán
Nghĩ tới thời gian trôi đi
Nhan sắc hao gầy
Lầm lỡ cuộc đời anh chàng phong lưu
Nhân Mục
戎婦寄征夫
車馬出門
風塵極目
時時有淚難乾
粧樓孤倚
鏡攬怯愁顏
惆悵垂楊滿地
離別後却為君攀
斷腸處珊瑚帳冷
不睡五更闌
時光容易過
月明一片
秋滿千山
正戎衣欲寄力搗風寒
燈下重書錦字
憑雁併信與君看
沙場外何時解甲
奏凱言還
右和茂
滿庭芳調
Phiên âm:
Thú phụ ký chinh phu
Xa mã xuất môn
Phong trần cực mục
Thời thời hữu lệ nan can
Trang lâu cô ỷ
Kính lãm khiếp sầu nhan
Trù trướng thuỳ dương mãn địa
Li biệt hậu khước vị quân phan
Đoạn trường xứ san hô trướng lãnh
Bất thuỵ ngũ canh lan
Thời quang dung dị quá
Nguyệt minh nhất phiến
Thu mãn thiên san
Chính nhung y dục kí lực đảo phong hàn
Đăng hạ trùng thư cẩm tự
Bằng nhạn tính tín dữ quân khan
Sa trường ngoại hà thời giải giáp
Tấu khải ngôn hoàn
Hữu Hòa Mậu
Mãn đình phương điệu
Dịch
Người vợ có chồng đi lính thú gửi cho chồng
Xe ngựa ra khỏi cổng
Gió bụi ngút mắt
Giọt lệ lúc nào cũng tuôn rơi khó cạn
Đứngdựa trên lầu son cô quạnh
Soi gương thấy ghê sợ gương mặt buồn bã
Buồn bã trông cây dương liễu rủ đầy đất
Sau khi li biệt chỉ nhớ tới hình bóng chàng
Chốn đoạn trường phòng trướng cao sang mà lạnh lẽo
Năm canh dài không ngủ
Thời gian trôi đi mau chóng
Trăng sáng một vầng
Mùa thu ngập tràn muôn đỉnh núi
Sửa áo nhung muốn gởi gắm chống lại phong hàn
Dưới đèn viết bức thư gấm
Nhờ chim nhạn gởi tới cho chàng xem
Ngoài sa trường lúc nào cởi giáp
Ca khúc khải hoàn trở về.
Hòa Mậu
Theo điệu Mãn đình phương
悶倚高樓
愁橫秋塞
鼕鼕鍾鼓雲間
霜花山色
此去行路難
離何堪忍奈
平生不過望夫山
誰語的冤冤苦苦
孤衾骨欲寒
藁砧何處是
魂迷楚岫
夢到秦關
祇黃昏又夜
明月初殘
穿尽燈前冷眼
幾迴把鏡泣孤鸞
腸斷兮憑誰担去
剖與君看
右仁睦
Phiên âm
Muộn ỷ cao lâu
Sầu hoành thu tái
Đông đông chung cổ vân gian
Sương hoa sơn sắc
Thử khứ hành lộ nan
Li hà kham nhẫn nại
Bình sinh bất quá vọng phu san
Thuỳ ngữ đích oan oan khổ khổ
Cô khâm cốt dục hàn
Cảo châm hà xứ thị
Hồn mê Sở tụ, mộng đáo Tần quan
Kì hoàng hôn hựu dạ
Minh nguyệt sơ tàn
Xuyên tận đăng tiền lãnh nhãn
Kỷ hồi bả kính khấp cô loan
Trường đoạn hề bằng thuỳ đản khứ
Phẫu dữ quân khan.
Hữu Nhân Mục
Dịch:
Buồn bã đứng tựa trên lầu cao
Nỗi buồn tràn ngập quan ải lúc trời thu
Ầm ầm tiếng trống vang vọng giữa tầng mây
Hoa sương sắc núi
Đi con đường này hiểm trở
Li biệt sao có thể chịu đựng
Bình sinh chẳng đi quá ngọn núi Vọng phu(5)
Ai nói xiết nỗi oan khổ này
Tấm chăn mỏng lạnh thấu xương
Chàng đang ở nơi nao
Hồn mê non Sở, mộng đến Tần quan
Hết hoàng hôn lại tới đêm
Trăng sáng mới tàn
Gió rét xuyên vào tận trước đèn
Bao lần soi gương khóc than tấm thân cô độc
Đứt ruột chừ biết cậy nhờ ai đưa tới
Xin mổ ra cho chàng xem
Nhân Mục
自從別後守空帷
直到于今眉懶畫
病愁腿却小腰圍
欲啼恐人知
愁無柰
相見無片時
梦則怜身不到花園
幾度蝴蝶飛
即即何日歸期
右仁睦
望江湖調
Phiên âm:
Tự tòng biệt hậu thủ không duy
Trực đáo vu kim my lãn hoạ
Bệnh sầu thoái khước tiểu yêu vi
Dục đề khủng nhân tri
Sầu vô nại
Tương kiến vô phiến thì
Mộng tắc lân thân bất đáo hoa viên
Kỉ độ hồ điệp phi
Tức tức hà nhật qui kỳ
Hữu Nhân Mục
Vọng giang hồ điệu
Dịch:
Từ sau khi từ biệt ngồi giữ chốn phòng khuê trống trải
Cho tới nay vẫn lười vẽ mày
Bệnh sầu lỏng lưng eo
Muốn hét lên lại sợ mọi người biết
Buồn rầu sao chịu nổi
Không có lúc được gặp nhau
Trong mộng xót thân chẳng tới được hoa viên
Mấy độ cánh bướm đua bay
Biết ngày nào là lúc trở về
Nhân Mục
Theo điệu Vọng giang hồ
夫君一去幾時還
魂夢乍知青海外
望眸不到玉門關
紅淚濕欄杆
心意苦
不奈朔風寒
料想黃雲征戰地
壯懷直擬斬樓欄
寧肯念花顏
右和茂
和前調
Phiên âm:
Phu quân nhất khứ kỉ thời hoàn
Hồn mộng sạ tri Thanh Hải ngoại
Vọng mâu bất đáo Ngọc Môn Quan
Hồng lệ thấp lan can
Tâm ý khổ
Bất nại sóc phong hàn
Liệu tưởng hoàng vân chinh chiến địa
Tráng hoài trực nghĩ trảm Lâu Lan
Ninh khẳng niệm hoa nhan ?
Hữu Hòa Mậu
Hoạ tiền điệu
Dịch:
Phu quân một đi lúc nào trở lại
Giật mình chợt thấy hồn mộng ngoài cõi Thanh Hải(6)
Mắt ngóng trông chẳng tới Ngọc Môn Quan(7)
Lệ hồng ướt lan can
Tâm ý khổ não
Chẳng kể tới phong hàn
Liệu tưởng chốn chinh chiến mây vàng
Tráng sĩ trong lòng luôn tính chuyện chém giặc Lâu Lan(8)
Há có nhớ tới gương mặt yêu kiều?
Hòa Mậu
Họa theo điệu trên
征夫寄還
鞭馬登程
風塵作客
匆匆人去雲間
黃花古道
別易見難
悶殺河橋秋色
行行處綠水青山
也寄得長亭牢落
雲路戟枝寒
春花又今日
魂歸故里
身在重關
正名韁多絆
賊甲未殘
弧矢男兒多事
卿卿有鏡莫驚鸞
歸去也印大如斗
領與伊看
右仁睦
Phiên âm:
Chinh phu kí hoàn
Tiên mã đăng trình
Phong trần tác khách
Thông thông nhân khứ vân gian
Hoàng hoa cổ đạo
Biệt dị kiến nan
Muộn sát hà kiều thu sắc
Hành hành xứ lục thuỷ thanh sơn
Dã ký đắc trường đình lao lạc(9)
Vân lộ kích chi hàn
Xuân hoa hựu kim nhật
Hồn quy cố lý
Thân tại trùng quan
Chính danh cương đa bạn
Tặc giáp vị tàn
Hồ thỉ nam nhi đa sự
Khanh khanh(10) hữu kính mạc kinh loan
Quy khứ dã ấn đại như đấu
Lãnh dữ y khan
Hữu Nhân Mục
Dịch:
Người chinh phu gửi về
Quất ngựa lên đường
Phong trần làm khách
Người nhanh chóng đi khuất tầm mây
Hoa vàng lối cũ
Chia li thì dễ mà gặp nhau thì khó
Nỗi phiền muộn nhuộm đầy sắc thu trên chiếc cầu bắc qua sông
Đi khắp nơi nước biếc non xanh
Cũng gởi gắm nỗi buồn khổ vất vả chốn trường đình
Đường mây phủ giáo thương giá buốt
Hoa xuân nay lại nở
Hồn về chốn cũ
Thân tại quan san cách trở
Chính danh phải chịu nhiều điều ràng buộc
Quân giặc chưa tan
Nghiệp cung kiếm nam nhi nhiều phận sự
Vợ yêu chớ u buồn vì lẻ loi chiếc kính ở buồng loan
Khi trở về ấn lớn bằng cái đấu
Lĩnh về cùng xem
Nhân Mục
自從弓馬別鸞帷
遠塞迢迢空盻望
寒山片片幔遮圍
情許夢魂知
纔眼去
也是合歡時
寄語少年嬌麗
妾倚門休唱惜春飛
粧束時予歸
右和茂
和原韻望江南調
Phiên âm:
Tự tòng cung mã biệt loan duy
Viễn tái thiều thiều không hễ vọng
Hãn sơn phiến phiến mạn già vi
Tình hứa mộng hồn tri
Tài nhãn khứ
Dã thị hợp hoan thì
Kí ngữ thiếu niên kiều lệ
Thiếp ỷ môn hưu xướng tích xuân phi
Trang thúc thời dư quy
Hữu Hòa Mậu
Họa nguyên vận Vọng Giang Nam điệu
Dịch:
Từ khi ra trận xa rời chốn buồng loan
Quan ải xa mờ vẫn ngóng trông
Núi non buốt giá lớp lớp vây quanh
Tình nhung nhớ mộng hồn có biết
Vừa đưa mắt nhìn
Thấy là lúc hợp hoan
Gởi gắm những lời về thời thiếu niên kiều lệ
Nàng tựa cửa chớ hát khúc ca tiếc nuối xuân qua
Sửa soạn quần áo ta sẽ về
Hòa Mậu
Họa nguyên vận điệu từ Vọng Giang Nam
他鄉跡滯未能還
落落悲笳吹夜月
恾恾征雁度長關
癡夢不相干
驚醒處
霜侵鐵衣寒
料想閨中紅臉婦
含情空自滴庭蘭
怎不損芳顏
右仁睦
和前調原韻
Phiên âm:
Tha hương tích trệ vị năng hoàn
Lạc lạc bi già xuy dạ nguyệt
Mang mang chinh nhạn độ trường quan
Si mộng bất tương can
Kinh tỉnh xứ
Sương xâm thiết y hàn
Liệu tưởng khuê trung hồng kiểm phụ
Hàm tình không tự trích đình lan
Chẩm bất tổn phương nhan
Hữu Nhân Mục
Họa tiền điệu nguyên vận
Dịch:
Lưu lạc nơi đất khách, chưa thể quay về
Tiếng kèn Hồ ảo não thổi trong đêm trăng
Vài cánh chim nhạn bay trên bầu trời quan ải mênh mang
Mộng mơ mê mẩn chẳng gặp được nhau
Giật mình tỉnh dậy
Sương rơi lạnh ướt cả áo giáp sắt
Nhớ tới người vợ má hồng chốn phòng khuê
Ôm mối tình luống khóc bên khóm lan ở sân đình
Lẽ nào không tổn hại tới dung nhan xinh đẹp?
Nhân Mục
Họa nguyên vận điệu từ trên
沙場萬里衽成帷
結髮於君多壯歲
龍泉三尺解重圍
英雄草木知
著手處
功名須及時
棄擲最非輕薄子
歸魂多自夢中飛
平淮策馬歸
右仁睦
和前原韻
Phiên âm:
Sa trường vạn lí nhẫm thành duy
Kết phát ư quân đa tráng tuế
Long Tuyền tam xích giải trùng vi
Anh hùng thảo mộc tri
Trước thủ xứ
Công danh tu cập thì
Khí trịch tối phi khinh bạc tử
Qui hồn đa tự mộng trung phi
Bình Hoài sách mã qui
Hữu Nhân Mục
Họa tiền nguyên vận
Dịch:
Sa trường muôn dặm lấy chiếu làm màn
Khi se duyên kết tóc chàng còn ở tuổi tráng niên
Thanh kiếm Long Tuyền(11) ba thước giải trùng vây
Anh hùng đến cỏ cây cũng biết
Nơi hành xử
Công danh phải gặp thời
Gã trai khinh bạc bỏ bê thật là không phải
Đêm mộng hồn thường bay về chốn cũ
Bình định được đất Hoài ruổi ngựa quay về
Nhân Mục
Họa nguyên vận điệu từ trên
月投西
客頭西
惹得離愁滿袖携
如啼却不啼
天又低
雲又低
萬里山川駟馬啼
何年合錦閨
右和茂
長相思調
Phiên âm:
Nguyệt đầu tê
Khách đầu tê
Nhạ đắc ly sầu mãn tụ huề
Như đề khước bất đề
Thiên hựu đê
Vân hựu đê
Vạn lí sơn xuyên tứ mã đề
Hà niên hợp cẩm khuê
Hữu Hòa Mậu
Trường tương tư điệu
Dịch:
Trăng lặn đằng tây
Khách đầu tây
Sầu li biệt ướt đầm vạt áo
Muốn hét lên nhưng không thể kêu thành tiếng
Trời lại tối
Mây lại tối
Muôn dặm non sông vang tiếng xe bốn ngựa
Bao giờ sum họp chốn buồng khuê
Hòa Mậu
Theo điệu Trường tương tư
長相思
短相思
愁對雲邊點點垂
登樓嘆夕暉
計佳期
索佳期
筆黛濃將點月眉
青春不負伊
右和茂
Phiên âm:
Trường tương ti
Đoản tương ti
Sầu đối vân biên điểm điểm thuỳ
Đăng lâu thán tịch huy
Kế giai kỳ
Sách giai kỳ
Bút đại nùng tương điểm nguyệt mi
Thanh xuân bất phụ y
Hữu Hòa Mậu
Dịch:
Tương tư dài
Tương tư vắn
Buồn bã ngắm những đám mây xa trôi dạt
Lên lầu than thở trước cảnh chiều tà
Tìm ngày tốt
Mong ngày tốt
Bút mực nồng sắp vẽ mày cong
Tuổi thanh xuân chẳng phụ bạc chàng
Hòa Mậu
日流西
月流西
數載風霜滿在携
魂斷夜猿啼
天色低
山色低
躕踟征馬未歸蹄
辜負你深閨
右仁睦
和前韻調元韻
Phiên âm:
Nhật lưu tê
Nguyệt lưu tê
Sổ tải phong sương mãn tại huề
Hồn đoạn dạ viên đề
Thiên sắc đê
Sơn sắc đê
Trù trì chinh mã vị quy đề
Cô phụ nhĩ thâm khuê
Hữu Nhân Mục
Họa tiền điệu nguyên vận
Dịch:
Mặt trời lặn phía tây
Mặt trăng lặn phía tây
Mấy năm phong sương bám đầy trên vạt áo
Hồn như đứt đoạn khi nghe tiếng vượn kêu trong đêm
Trời sắc tối
Núi sắc tối
Lần lữa vó ngựa chiến chinh vẫn chưa trở về
Phụ bạc nàng chốn buồng khuê
Nhân Mục
Họa nguyên vận điệu từ trên
奪錦榮歸
南鄉子調
雄筆掃長篇
占了儒林弟一仙
顯姓揚名新得意
翻螭陛擎天雨露鮮
白面稱青年
梓里香風引玉鞭
晝錦堂青
簫鼓沸喧喧
燭傍青娥共倒顛
右二首和茂
Phiên âm:
Đoạt cẩm vinh quy
Nam hương tử điệu
Hùng bút tảo trường thiên
Chiếm liễu nho lâm đệ nhất tiên
Hiển tính dương danh tân đắc ý(12)
Phiên li bệ kình thiên vũ lộ tiên
Bạch diện xứng thanh niên
Tử lí hương phong dẫn ngọc tiên
Trú cẩm đường thanh
Tiêu cổ phí huyên huyên
Chúc bạng thanh nga cộng đảo điên
Hữu nhị thủ Hòa Mậu
Dịch:
Đoạt áo gấm trở về trong vinh quang
Theo điệu Nam hương tử
Ngòi bút hùng tráng viết trường thiên
Chiếm được vị trí đệ nhất trong rừng nho
Tên họ lẫy lừng thật đắc ý
Thỏa thích dưới bệ rồng hưởng ơn mưa móc
Gương mặt thư sinh đáng mặt thanh niên
Khi trở về quê hương cưỡi ngựa tay cầm roi ngọc
Phủ đường lộng lẫy(13)
Tiêu trống nổi vang rền
Bên đèn điên đảo cùng ả mày xanh
Hai bài trên của Hòa Mậu
書劍上長安
對策丹墀吐筆端
辭源流萬斛潺潺
跨了龍門萬丈瀾
步月甲枝攀
詰對嫦娥在廣寒
且道今朝非昔日寒酸
布衣換却錦衣還
右二首仁睦
Phiên âm:
Thư kiếm thướng Trường An
Đối sách đan trì(14) thổ bút đoan
Từ nguyên lưu vạn hộc sàn sàn
Khóa liễu Long Môn vạn trượng lan
Bộ nguyệt giáp chi phan
Cật đối Thường Nga tại Quảng Hàn
Thả đạo kim triêu phi tích nhật hàn toan
Bố y hoán khước cẩm y hoàn
Hữu nhị thủ Nhân Mục
Dịch:
Mang thư kiếm lên Trường An
Chốn thềm son đối sách nhả ra đầu ngọn bút
Nguồn từ chảy ra ào ào hàng vạn hộc
Vượt qua Long Môn(15) có cơn sóng dâng cao muôn
trượng
Đi tản bộ vươn tay với lên cung trăng
Đàm đạo với Hằng Nga ở trên cung Quảng Hàn
Vả lại sáng hôm nay đâu phải ngày xưa đói rét
Áo vải đã đổi thành áo gấm trở về
Hai bài trên của Nhân Mục.
Chú thích:
(*) Tôi xin chân thành gửi lời cám ơn tới ThS. Đinh Thanh Hiếu Và ThS. Phạm Văn Ánh đã góp ý giúp tôi hoàn thành bài viết này
(1) Trần Ngọc Vương, Đinh Thanh Hiếu. Từ, một chủng loại còn ít được biết tới - Tạp chí Văn học số 9/2004.
(2) Phạm Văn Ánh. Thể loại từ thời Lê Trung hưng - Luận án thạc sĩ khoa học ngữ văn 2007, tr.111.
(3) Phạm Văn Ánh. Sđd tr.60.
(4) Phạm Văn Ánh. Sđd tr.117.
(5) Vọng phu sơn: ngọn núi ở tỉnh Lạng Sơn, vùng biên giới Việt Trung. Tương truyền xưa có người vợ ôm con bước lên đỉnh núi ngày đêm ngóng trông người chồng đi xa trở về. Tuy nhiên người chồng mãi không trở về, hai mẹ con đứng đợi mãi nên hóa thành đá.
(6) Thanh Hải: một tỉnh ở phía tây Cam Túc, có hồ nước mặn rộng. Xưa quân Đột Quyết thường tới quấy nhiễu.
(7) Ngọc Môn: cửa ải thời cổ trên con đường trọng yếu giao thông với Tây Vực, nằm ở phía Bắc huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc.
(8) Lâu Lan: một nước nhỏ ở Tây Vực, thường bị coi là mọi rợ.
(9) Trường đình: cứ 10 dặm có một nhà trạm gọi là trường đình.
(10) Tiếng vợ chồng gọi nhau một cách thân thiết.
(11) Long Tuyền: chỉ thanh gươm quý. Đời Tần. Trương Hoa người đất Phong Thành rất giỏi xem thiên văn. Thấy giữa sao Ngưu và sao Đẩu có khí sáng màu tím, biết đó là kiếm khí xông lên tận trời. Trương Hoa bèn sai Lôi Hoán đi tìm. Lôi Hoán đào nhà ngục Phong Thành sâu hơn bốn trượng thì thấy một chiếc hộp đá. Bên trong có hai thanh bảo kiếm Long Tuyền và Thái A. Hoa, Hoán mỗi người lấy một thanh kiếm. Đêm đó trên trời không có khí sáng giữa sao Ngưu và sao Đẩu nữa. Sau khi hai người mất đi, hai thanh kiếm liền hóa thành rồng lặn xuống nước.
(12) Ly: Con rồng sắc vàng không có sừng
(13) Sở Bá Vương Hạng Vũ sau khi diệt Tần chạnh nhớ cố hương, không nghe theo lời mưu sĩ định đô ở Quan Trung mưu nghiệp đế vương mà quyết trở về nước Sở. Ông nói: “được giàu sang mà không trở về quê cũ thì cũng như mặc áo gấm đi đêm, còn ai biết gì ?”. Đời Tống Tể tướng Hàn Kỳ khi về trí sĩ đã lập nên tòa nhà Trú Cẩm Đường (mặc áo gấm ban ngày).
(14) Đan trì: thềm son chốn cung điện vua chúa - nơi tổ chức thi đình.
(15) Long môn: còn gọi là Vũ môn. Đây là cửa sông do ông Hạ Vũ khai nên gọi là Vũ môn. Tương truyền ở đây có một chỗ nước rất sâu và nguy hiểm, con cá chép nào vượt qua được thì sẽ hóa thành rồng nên sau này người ta ví người thi đỗ như cá chép đã hóa rồng./.
Thông báo Hán Nôm học 2008; tr.569-605