Nghiên cứu khoa học

VỀ BÀI THƠ NÔM SỐ 79 CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM


11-10-2020

Một mai, một cuốc, một cần câu, Thơ thẩn dù ai vui thú nào...

VỀ BÀI THƠ NÔM SỐ 79 CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

PGS.TS. NGUYỄN ĐĂNG NA

Trường ĐH Sư phạm Hà Nội 1

Bạch Vân thi tập (白雲詩集) hiện đang lưu trữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, mang kí hiệu AB.157, AB.309 và AB.635. Cả ba văn bản này đều gồm 100 bài thơ, dùng chữ Quốc âm theo cách thể trường, đoản. Ta có thể chia văn bản của chúng thành hai loại. Loại AB.157 và AB.309 (gần như hoàn toàn giống nhau), tạm gọi là bản a; loại thứ hai, chỉ có một bản là AB.635, tạm gọi là bản b. Riêng Bài thơ Nôm số 79(1) của bản a được Trần Trung Viên phiên âm - biên soạn đưa vào sách Văn Đàn bảo giám(2) in năm 1926; Sở Cuồng Lê Dư phiên âm, chú giải in năm 1939,... Sau, Bài 79 đã sẵn có, được đưa vào Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X - thế kỉ XVII(3), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm(4),... và đặt thêm một số dấu (như phảy, chấm,...) hoặc thay vài chữ, thêm khảo dị, chú thích,... Cuối cùng, đầu thế kỉ XXI, sách Ngữ văn 10, tập một chọn đúng Bài 79 trên, rồi đặt tên là Nhàn(5). Dưới đây là toàn Bài 79 trong bản a như sau:

蔑埋蔑𨨠蔑芹鉤

疎引油埃𣡝趣芾

些曳些尋尼永尾

𠊛坤𠊛典准唠哰

秋咹芒竹冬咹稼

春沁湖蓮夏沁

𨢇旦檜些仕㕵

𥆾䀡富貴似占包

"Một mai, một cuốc, một cần câu,

Thơ thẩn dù ai vui thú nào.

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,

Người khôn, người đến chốn lao xao.

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao".

Bài 79 thuộc thất ngôn bát cú, sáng tác theo cấu trúc cận thể thơ luật Đường. Toàn bài tạo thành một hệ thống chặt chẽ: trên - dưới, tung - hứng, mở - kết,... Tuy nhiên, do khuôn khổ bài viết, chúng tôi chủ yếu trình bày hai vấn đề: Mở và Luận của bài trên.

*

1. Mở: phá và thừa đề.

Mở bài, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) viết: Một mai một cuốc một cần câu. Đấy là câu phá đề - bao quát chủ đề. Tiếp theo là thừa đề, nói vào nội dung: Thơ thẩn dù ai vui thú nào.

Vậy, câu phá đề, tác giả muốn nói gì về chủ đề ?

Khi phá đề, Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy ngay điển từ Nhạc phủ - bài Kích nhưỡng ca (擊壤歌) để mở đề: “Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực (鑿井而飲, 耕田而食)”; nghĩa là, “đào giếng mà để uống, cầy ruộng mà để ăn”. Bài Kích nhưỡng ca ngợi cuộc sống thái bình thịnh trị lúc Nghiêu đang làm vua, khi xã hội nguyên thủy giữa con người với con người bình đẳng và con người đang sống tự do, vui vẻ,... Từ đó, bài ca Kích nhưỡng được truyền bá, hát từ thời Nghiêu, qua thời Thuấn, đến thời Vũ và kéo dài. Song, chế độ xã hội phát triển, khi đẳng cấp hình thành, vua nắm quyền, dân bị bóc lột, bị áp bức,... Thế là, con người muốn vùng lên chống lại thống trị. Tư tưởng tự do quật khởi. Hấp thụ tư tưởng Mặc Tử (khoảng 468 - 376 TCN) và Trang Tử (khoảng 369 - 286 TCN), Hàn Phi (sống khoảng 280 - 233 TCN) cất cao ý chí: “Ngô bất thần thiên tử, bất hữu chư hầu, canh tác nhi thực chi, quật tỉnh nhi ẩm chi(6) (吾不臣天子, 不友諸侯,耕作而食之, 掘井而飲之)”, nghĩa là: Ta không làm bề tôi của Thiên tử (nghĩa là không có Thiên tử), không làm bạn với các nước chư hầu (vì họ đang đội đầu Thiên tử), cầy ruộng mà ăn thứ đó, đào giếng mà lấy nước đó uống.

Tư tưởng Mặc Tử, Trang Tử, Hàn Phi Tử và dĩ nhiên cả tư tưởng Nho gia được hội tụ ở Nguyễn Bỉnh Khiêm cuối thế kỉ XV - thế kỉ XVI. Ông đã biểu hiện tư tưởng đó qua Quốc ngữ thi trong đó có Bài 79.

Thời đại Việt Nam thế kỉ XV - XVI thay đổi: nhà Lê chuyển sang triều Mạc. Năm 1497, Lê Thánh Tông mất. Lê Hiến Tông nắm quyền chẳng được bao lâu: 1498 - 1504. Rồi, Lê Túc Tông chỉ làm vua có 6 tháng 2 ngày (từ mồng 6 tháng 6/1504 đến ngày mồng 8 tháng 12/1504). Hai vị vua tiếp theo là Uy Mục (1505 - 1509) và Tương Dực (1509 - 1516) cùng nhau phá phách, đưa nhà Lê xuống dốc thẳm. Trước tình cảnh đó, Chiêu Tông (1516 - 1522) cố gắng vãn hồi nhà Lê. Nhưng, ông hoàn toàn bất lực. Vua cuối cùng - Cung Hoàng (1522 - 1527) bị ngoại thích giết. Thế là, một trăm năm (1428 - 1527) nhà Lê chấm dứt. Chính quyền về tay họ Mạc. Bấy giờ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã 36 tuổi (1491 - 1527); ông cũng đủ thời gian hơn ba mươi năm qua để chiêm nghiệm thịnh suy của nhà Lê. Ông sẽ đi theo hướng nào ?

Trước hết, Nguyễn Bỉnh Khiêm gia nhập triều Mạc, đỗ Trạng nguyên năm 1535 vào tuổi 44; rồi làm quan bảy năm: 1535 - 1542. Khi 51 tuổi - 1542, Nguyễn Bỉnh Khiêm từ quan, trở về cuộc sống thảng thích giữa trời và đất, chẳng làm bề tôi nhà Mạc, cũng chẳng chầu về nhà Lê Trung hưng. Vì thế, ông theo Hàn Phi, đấy là tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm biểu hiện Một mai, một cuốc,...

Sau mai và cuốc, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện tiếp ý tưởng của mình: một cần câu. Ở đây, ông dùng điển Trang Tử về cần câu mà Điền Tử Phương, thời Chiến Quốc ghi: “Văn Vương quan ư Tang, kiến nhất trượng phu điếu, nhi kì điếu mạc điếu; phi trì kì điếu hữu điếu giả dã, thường điếu dã (文王觀於臧, 見一丈夫釣而其釣莫釣; 非持其釣有釣者也, 常釣也)”; nghĩa là: Văn Vương xem câu ở đất Tang, thấy một người trượng phu đang câu mà cần câu không có lưỡi câu; người đó không cầm cần câu có lưỡi câu, mà luôn luôn câu. Câu nói đó được Tư Mã Thiên (khoảng 145-135 TCN - ?) thuật lại, viết thành thiên Thế gia của Tề Thái Vọng trong Sử kí. Tư Mã Thiên kể về tài năng của thánh hiền Lã Vọng, đã suốt đời 70 tuổi mà vẫn buông câu lưỡi thẳng, cũng chẳng dùng mồi thơm câu trên sông Vị, đợi chờ phò tá Vũ Vương diệt Thương Trụ, lập triều Chu. Bởi thế, muốn biết "cần câu" trong Bài 79của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nên hiểu ý tưởng ở Trang Tử. Vậy mà, cũng có người viết rằng, cần câu là “công cụ lao động: ... để bắt cá”. Thôi thì, đành phải cung cấp cái gọi là "cần câu" vậy !

Trong Kinh Thi phần Vệ phong có bài Trúc can (竹?竿). Hai câu đầu, cô gái hát: "Địch địch trúc can, Dĩ điếu vu Kì" (蔕蔕竹竿, 以釣于淇) - nghĩa là, “Cành tre dài von vót, để câu ở sông Kì”(7). Đấy là cần câu để câu, chứ không phải là công cụ lao động để bắt cá !

Đấy là mở đề. Để thừa đề, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói thẳng về nội dung: Thơ thẩn dù ai vui thú nào. Vui thú mà Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn là, tự tại ung dung, một mình - chỉ một mình tôi(8) - giữa đất và trời; không làm bề tôi đội đầu Thiên tử, cũng chẳng làm bạn với các chư hầu vì họ đang đội Thiên tử trên đầu; tự đào giếng mà lấy nước uống; tự cầy cấy mà lấy thứ ăn; câu chẳng cần mồi, chẳng lưỡi câu mà các bậc thánh hiền như Vũ Vương tự tìm đến Khương Tử Nha. Nếu đội Thiên tử, nghĩa là, khắp nơi từ bầu trời đến mặt đất đều của Thiên tử; cũng nghĩa là, kể cả rau vi, rau thái trên núi sâu thẳm đều thuộc của Thiên tử. Thế thì, chỉ có con đường đi theo Bá Di, Thúc Tề hóa thành chim kêu: “bất thực Chu túc (不食周粟)”(9) - (không ăn thóc nhà Chu) ở Thú Dương mà thôi. Đấy là Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà minh triết, nhà thơ Việt Nam thế kỉ XVI. Với tầm tư tưởng như vậy khiến các vua Mạc: Phúc Hải (1541 - 1546), Phúc Nguyên (1547 - 1561), Mậu Hợp (1562 - 1592) hoặc vua Lê: Trung Tông (1549 - 1556), Anh Tông (1557 - 1573), Thế Tông(10) (1573 - 1560) đều tự đến tìm, tôn Nguyễn Bỉnh Khiêm là bậc quân sư, bậc sư phụ. Vậy mà, có người biến Nguyễn Bỉnh Khiêm thành nông dân lao động cần cù, đào đất, cuốc xới đất, bắt cá,... Chẳng hạn, trong các sách Trung học phổ thông với đầu đề “1. Vẻ đẹp cuộc sống” của Nguyễn Bỉnh Khiêm, họ ghi: “...Cụ Trạng về sống giữa thôn quê như một “lão nông tri điền”, với những công cụ lao động: mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá”(11). Tôi biết bình luận gì đây ?

2. Luận.

Thơ cận thể luật Đường theo thứ tự: Mở đầu gồm “phá đề” và “thừa đề” (câu 1 và 2); tiếp theo là “thực” (câu 3 và 4) và “luận” (câu 5 và 6); cuối là “kết” (câu 7 và 8).

Phần luận trong thơ luật Đường, các thi nhân thường giãi bày ý tưởng hoặc cảm xúc của mình về chủ đề mà mình đang suy ngẫm. Trong Bài 79, Nguyễn Bỉnh Khiêm bộc lộ tình cảm của mình qua hai câu luận:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Nếu chỉ liếc qua hai câu trên, ta nhận ngay trình tự thời gian mà Nguyễn Bỉnh Khiêm cố ý đảo ngược: thu -> đông // xuân -> hạ. Đấy chính là nghệ thuật thơ ca, là ý đồ cấu tứ thơ ca của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ấy mà, có người viết: “Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, mùa nào thiên nhiên cũng là môi trường sống thanh tao:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Hai câu thơ là một bộ tranh tứ quý, có cảnh, có người, có mùi vị, có hương sắc(12)”.

Ôi, Nguyễn Bỉnh Khiêm đâu xếp tứ quý theo lối vẹt hót: xuân, hạ, thu, đông! Ông cũng chưa bao giờ làm việc môi trường! Một bộ tứ quý, đặt bức nào trước, bức nào sau, đâu phải cứ sắp xếp bừa? Vả chăng, tranh tứ quý vốn do người Việt Nam thời trung đại thường viết chữ Hán, chữ Nôm,... Thành thử, trẻ không đọc được nên xếp lộn bốn mùa.

Câu đầu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa ăn lên trên và đặt song trùng: ăn (măng) // ăn (giá). Đấy là “hình nhi hạ (形?而ứ?Â)”. Câu sau, thi nhân vẫn dùng phương pháp sóng đôi: tắm (hồ) // tắm (ao). Đây mới chính là “hình nhi thượng (形?而ứ?ẽ)(13)” Hai câu luậ song song đ?i nhau. Nhưg, ngay trong mỗ câu, Nguyễ Bỉh Khiêm lạ chặ đi: hình nhi thư?ng trư?c (măg trúc) // hình nhi hạ sau (giá). Măg trúcdo trờ ban, thiên nhiên ban; còn giá bở con ngư?i vấ vảlàm ra. Câu sau vẫ theo lố cấ trúc: Hình nhi thư?ng trên - hồsen do ông xanh tạ hóa, ông ban cho đ?ợ tắ hư?ng trờ; mà nế, ông xanh không cho thì vui vẻtrởvềtắ ao (cũg có thểtắ ao tù) - Hình nhi hạ dư?i. Con ngư?i tựlàm, chẳg phả đ?i Thiên tử

Mộ nă bố mùa, có tớ ít nhấ ba mùa măg: xuân, thu, đông.

Tháng ba cuố xuân, măg ngon. Lư?ng Tiêu Sâm(14) ngâm:

_

春筍方解籜,

弱柳向低風.

"Xuân duẩn phương giải thác

Nhược liễu hướng đê phong"

(Măng xuân mới bóc,

Liễu mềm gió qua).

(Tiễn Tạ Văn Học).

Gần ba trăm năm trước đấy, nhà thơ Đỗ Phủ (712 - 770) hứng khởi, ngất ngưởng ca:

青青竹笋迎船出

日日江魚入饌來.

"Thanh thanh trúc duẩn nghênh thuyền xuất

Nhật nhật giang ngư nhập soạn lai."

(Măng trúc xanh xanh thuyền chở đến,

Ngày ngày sông cá nhập vào đây).

(Tống Vương Thập ngũ Phán quan Phù thị hoàn Kiềm Trung).

Đến tiết đông, cuối mùa lại có măng đặc biệt. Khi đó, búp măng chưa nhô khỏi mặt đất. Người ta vất vả đào măng dưới gốc bụi tre. Mã Viện (14 TCN đến 49 SCN) cho rằng, vị của măng đông ngon hơn măng cuối xuân, đầu hè.

Nhưng, mùa thu, măng trúc ăn sang trọng hơn. Sách nói, Tô Tụng (1020 - 1101) là người Phúc Kiến, nhà Thiên văn, nhà Y dược. Với tư cách là nhà Y học, ông nhận xét: “Chỉ riêng các nhà lấy măng trúc đắng mùa thu là quý nhất”. Sau, Lí Thời Trân (1518 - 1593) nhắc lại lời Tô Tụng về măng trúc đắng mùa thu. Lại có truyện về Lưu Hoài Trân trong Nam Tề thư(15). Truyện kể rằng, mẹ của Linh Triết thường bị bệnh. Linh Triết tự mình cầu đảo, mộng thấy cụ già, mặc áo vàng, bảo: “Lấy măng trúc ở Nam Sơn cho mẹ ăn, mẹ lập tức khỏi ngay”. Quả nhiên, khi mẹ Linh Triết được ăn măng Nam Sơn, bèn khỏe. Truyền thuyết trên mang ý nghĩa về tinh thần giá trị của măng trúc thời xưa, giúp con người sống lâu. Đấy là nửa câu trên: hình nhi thượng - thu măng trúc. Nửa câu dưới: hình nhi hạ - đông giáthì sao ?

Theo Bạch Vân thi tập từ bản a đến bản b đều hợp trùng Bài 79. Riêng phần luận, từ bản a đếnbản b hoàn toàn giống nhau. Đặc biệt, câu năm đều viết chữ cuối cùng là giá(bộ hòa禾):

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá.

Chữ giá (稼) mang bao nhiêu nghĩa? Theo Tự điển chữ Nôm có bảy chữ giá(16), gồm bốn chữ Hán văn ngôn là: 架, 駕, 這, 價và ba chữ tự tạo là: 𥳅, ?, 𦁹. Khi gia nhập vào chữ Việt, chữ Hán văn ngôn mang luôn trường nghĩa gốc Hán vào Việt Nam. Chẳng hạn, chữ giá (稼) vừa là động từ (cầy cấy, trồng trọt), vừa là danh từ (thóc gạo, ngũ cốc). Thí dụ: “(Thuấn) tự canh giá, đào ngư dĩ chí vi đế, vô phi thủ ư nhân giả ((舜)自耕稼陶漁以至為帝,無非取於人者)” - (Thuấn) tự cầy cấy, làm công cụ, đánh cá,... đến việc làm đế, chẳng có gì là không làm(17). Như vậy chữ giá là động từ: cày cấy, trồng trọt.

Câu thơ: "Ta ngã nông phu, Ngã giá kí đồng " (嗟我農夫, 我嫁既同) - nghĩa là, “Ôi ! Những nông phu của ta, lúa của chúng ta đã gom chứa vào đấy rồi”(18). Như vậy, giá là danh từ: lúa gạo, ngũ cốc…

Khi gia nhập vào kho tàng chữ Việt, chữ Hán văn ngôn trở thành chữ Nôm. Cho nên, tùy trường hợp cụ thể, chúng có thể giữ chức năng động từ hoặc giữ chức năng danh từ. Hơn nữa, như chúng tôi đã nói, thể thơ luật Đường bao giờ cũng tạo thành một hệ thống chặt chẽ: trên - dưới, tung - hứng, mở - kết,... Nếu Mở đề đã nói "cuốc" (canh điền hoặc canh tác) là đã chuẩn bị về kết quả giá: thóc gạo, ngũ cốc. Tuy nhiên, đôi khi vì sơ xuất, chưa để ý mối liên hệ nhân quả (Mở đề - Luận) nên giải thích bị trệch. Chẳng hạn, biên soạn Chú thích: “Giá: thứ rau bằng mầm của hột đậu xanh ngâm ủ, mọc nên”(19). Thế là, có người tóm ngay và lấy làm sung sướng, vừa nhấm nháp, vừa gật gù, tán dương về Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá đỗ, nhưng câu thơ “thu ăn măng trúc, đông ăn giá”, nói như Xuân Diệu là có cảm giác “ăn giá tuyết, uống băng đông”. Cách viết tinh tế trong câu thơ là biểu hiện của cảm nhận tinh tế về thiên nhiên của tác giả”(20).

Đây là hai vấn đề mà chúng tôi đã trình bày. Nếu chúng tôi có viết gì sơ xuất, rất mong các độc giả chỉ giúp và lượng thứ. Riêng đặt nhan đề Nhàn và phần Kết của Bài 79 chúng tôi sẽ trình bày tiếp bài sau.

Chú thích:

(1) Từ đây gọi là Bài 79, hoặc Số 79.

(2) Văn Đàn bảo giám, Văn học Tùng thư, 1926, Quyển III, gồm 49 bài thơ Nôm, từ tr.1 đến tr.15.

(3) Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X - thế kỉ XVII, Nxb. Văn hóa, H. 1962, tr.466.

(4) Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Văn học, H. 1983. Riêng văn bản này có thêm Khảo dị, Chú thích, tr.114-145.

(5) Ngữ văn 10, Tập một, Nxb. Giáo dục, H. 2006, tr.128-129.

(6) Hàn Phi Tử: Ngoại trừ thuyết hữu thượng(外儲說右上).

(7) Kinh Thi, phần Vệ phong, bài Trúc can, Tập 1, Nxb. Đà Nẵng, Tạ Quang Phát dịch, tr.288.

(8) Xin chú ý lặp lại từ "một" - khẳng định cái tôi của tác giả.

(9) Xem Bá Di liệt truyện trong Sử kí của Tư Mã Thiên.

(10) Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585.

(11) Ôn tập Ngữ văn 10, tr.63; Ngữ văn 10, Tập một, Sách giáo viên, tr.167, Bài tập Ngữ văn 10, Tập một, tr.89, Bình giảng Thơ Nôm Đường luật tr.59 (chỉ thay “lão nông chi điền” trước, nay đổi là “lão nông tri điền”).

(12) Bài tập Ngữ văn 10, Tập một, tr.89; Ngữ văn 10, Tập một, Sách giáo viên, tr.168.

(13) Xem Dịch (易), Hệ từ thượng (系辭上).

(14) Lương Tiêu Sâm (梁蕭琛), thời Tống.

(15) Sách Nam Tề thư do Tiêu Tử Hiển soạn.

(16) Tự điển chữ Nôm, Nxb. Giáo dục, 2006, tr.413-414.

(17) Công Tôn Sửu thượng, sách Mạnh Tử.

(18) Kinh Thi, T.I, Nxb. Đà Nẵng, 2003, bài Thất nguyệt, tr.650, Tạ Quang Phát dịch.

(19) Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb. Văn học, 1983, tr.115.

(20) Bài tập..., tr.89, Ôn tập... tr.63, Ngữ văn... Sách giáo viên, tr.168./.

(Tạp chí Hán Nôm; Số 4 (94) 2009; Tr.68-73)

Post by: Vu Nguyen HNUE
11-10-2020