Nghiên cứu khoa học

CẢM NGHĨ VỀ THƠ TRẦN NHÂN TÔNG


18-02-2022

CẢM NGHĨ VỀ THƠ TRẦN NHÂN TÔNG

PGS.TS. TRẦN THỊ BĂNG THANH

Viện Văn học

Trần Nhân Tông sáng tác nhiều, cả thơ và văn, về đề tài thế tục và về Thiền. Về thơ, theo sử sách cổ, nhà vua có hai tập Đại Hương Hải ấn thi tập  Trần Nhân Tông thi tập. Tập thứ hai chắc chắn do người đời sau sưu tập, đặt tên, có thể bao gồm (hoặc không bao gồm) cả tập thơ thứ nhất, chưa rõ số lượng là bao nhiêu, chỉ biết hiện còn 32 bài và một số cặp câu lẻ rải rác trong Ngữ lục, khi Trần Nhân Tông giảng về Thiền cho môn đệ. Trong số thơ này bài Hạnh Thiên Trường hành cung, có một số ghi chép khác nhau. Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên, Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích đều ghi vào phần tác phẩm của Trần Nhân Tông, trong khi đó Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, Đại Việt sử ký toàn thư(1) của Ngô Sĩ Liên, Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, Trần triều thế phả hành trạng đều ghi vào phần tác phẩm của Trần Thánh Tông. Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi rõ “Thượng hoàng ngự đến hành cung Thiên Trường, có làm bài thơ rằng”. Các sách mới xuất bản như Thơ văn Lý - Trần(2) do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, Trần Nhân Tông toàn tập(3) của Lê Mạnh Thát đều theo Đại Việt sử ký toàn thư. Chúng tôi cũng cho cách lựa chọn ấy là hợp lý, bởi nếu xét ý tứ và ngôn từ thì bài thơ quả là hợp với tâm thế Trần Thánh Tông hơn.

Trần Nhân Tông là một nhà thơ tiêu biểu đời Trần. Thơ của ông có một sức thu hút đặc biệt, đến “quyến rũ”, bởi không chỉ những ý tưởng cao cả, sâu sắc mà còn bởi vẻ đẹp đạt đến độ tinh tế của ngôn từ và cách biểu đạt.

Thơ của Trần Nhân Tông có hai mạch cảm hứng. Một là những bài thơ đậm ý nghĩa chính trị, sáng tác khi ông ở cương vị một thi nhân - Hoàng đế đang nắm trong tay vận mệnh cả giang sơn xã tắc, cả sự an nguy của dân tộc. Ông đã viết những vần “thơ đuổi giặc”, nhưng có lẽ trước ông chưa một bài thơ kêu gọi - khẩu hiệu - nào lại vừa đậm chất trữ tình vừa thể hiện được yêu cầu khích lệ mạnh mẽ đến như hai câu nhà vua viết vào đuôi thuyền trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến giữ nước vô cùng gian nan, mới hơi hồi sức, mà giặc Nguyên thì vẫn truy đuổi sau lưng:

"Cối Kê cựu sự quân tu ký

Hoan Diễn do tồn thập vạn binh."

(Cối Kê, việc cũ anh nên nhớ

Hoan, Diễn đang còn mười vạn quân).

Trần Nhân Tông cũng có những câu thơ “mừng thắng trận” nhưng ở đó không chỉ có niềm vui, tự hào bề nổi mà còn thể hiện cả tầm suy nghĩ chín chắn sâu xa, một cái nhìn minh triết xuyên suốt quá khứ - hiện tại - tương lai:

"Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,

Sơn hà thiên cổ điện kim âu."

(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,

Non sông muôn thuở vững âu vàng)

Vượt qua cái gian nguy của quá khứ, không chỉ một lần, cả triều đình, nhân dân và anh linh tổ tiên đều gian lao vất vả, dân tộc đã đạt được kết quả lớn lao, sơn hà được “đặt vững âu vàng”, nhưng dù vậy vẫn còn cái đích phải phấn đấu ở phía trước, đó là sự vững bền, trường tồn của đất nước “muôn thuở”. Quá khứ, hiện tại và tương lai là tiền đề, hệ quả và đích tới của nhau. Hai câu thơ nói về một sự kiện có thực - ngựa đá ở Chiêu Lăng bị vấy bùn do giặc Nguyên định đào mộ vua Trần Thái Tông mà không được - nhưng đã trở thành hình tượng mang tính tượng trưng sâu sắc và độc đáo, giàu giá trị biểu cảm. Cũng vậy, bài Xuân nhật yết Chiêu Lăng, Trần Nhân Tông tự ca ngợi vương triều mình, ông nội mình, rất uy nghiêm mà vẫn rất trữ tình:

"Tì hổ thiên môn túc,

Y quan thất phẩm thông.

Bạch đầu quân sĩ tại,

Vãng váng thuyết Nguyên Phong."

Tạm dịch:

Thị vệ nghiêm nghìn cửa,

Mũ áo bảy phẩm thông.

Lính bạc đầu còn đó,

Kể mãi chuyện Nguyên Phong.

Nguyên Phong là niên hiệu Trần Thái Tông, đó là một thời thịnh trị, và năm Nguyên Phong thứ 7 (đầu năm 1278) cũng là năm dân tộc ta thắng giặc Nguyên xâm lược lần thứ nhất. Chỉ với 20 chữ, toàn thuật sự việc, không một từ hoa mỹ, xưng tụng nhưng vẻ uy nghiêm mà đầm ấm của ngôi lăng Trần Thái Tông vẫn hiển hiện rõ rành. Quả là nếu Trần Thái Tông không phải là một vị vua tuyệt vời thì những người lính trông lăng mộ ông cho đến lúc bạc đầu chẳng thể nào luôn nhắc về ông với một tấm lòng vừa thành kính vừa yêu thương như vậy.

Trong mạch thơ này, hoặc tặng đáp sứ thần đối phương, hoặc tụng ca đất nước, vương triều, dân tộc, thơ của Nhân Tông đều rất uyển chuyển, có tình. Theo Thơ văn Lý - Trần, Trần Nhân Tông có năm bài thơ trong bốn lần tiếp sứ. Lần thứ nhất vào năm 1289, sau hai lần đại bại, Lý Tư Diễn mang chiếu sang phong vương nhưng thực chất là thương lượng để đón bọn tướng tá bị bắt, và nhà Nguyên cũng đem trả ta sứ bộ Nguyễn Nghĩa Toàn. Cuộc tiếp sứ lần này diễn ra ôn hòa, Trần Nhân Tông mời trầu, tặng vàng bạc hậu hĩnh, chơi cờ với sứ giả. Mặc dù chiến trận mới qua đi được một năm, nhưng mùa xuân Thăng Long rất thanh bình, khiến cho những người trong cuộc đều ngây ngất bởi hương “hoa bưởi An Nam thơm như hoa nhài, Lĩnh Bắc không có thứ hoa ấy”. Bài thơ Quan kỳ (Xem đánh cờ) của Từ Minh Thiện, Nho sinh giúp việc giấy tờ cho Lý Tư Diễn, đã ghi lại được không khí thân thiện, yên bình đó:

"Địa tịch già phu ngọ tọa lương,

Kỳ biên tụ thủ khán nhân mang.

Tân lang, nhược hợp hựu xuân lục.

Tống đáo thuỳ gia quất tụ hương."

(Buổi trưa xếp bằng tròn ngồi mát trên chiếc chiếu trải dưới đất,

Thu tay trong tay áo xem người bận rộn đánh cờ.

Cau tươi, vôi và trầu xanh,

Hoa quất, hoa bưởi nhà ai thoảng đưa hương tới).

Chuyến đi sứ suôn sẻ, nhưng Lý Tư Diễn phải “ra về tay không”(4), bởi không thể thuyết phục vua Trần thân sang triều phục. Tiễn sứ giả, Trần Nhân Tông tặng một bài thơ, ca ngợi không khí hoà ấm sau chiến tranh, đồng thời ý tứ nhắc rằng lẽ trời đất là yêu thương không phân biệt Nam Bắc, Thiên tử hẳn cũng hiểu, hoặc phải cố hiểu, điều đó:

"Càn khôn kiêm ái vô Nam Bắc,

Hà hoạn vân lôi phục hữu truân."

(Trời đất một lòng yêu thương không phân biệt Nam, Bắc,

Còn lo gì lại gặp bước gian truân gió mưa sấm sét).

Lần thứ hai vào năm 1291, tiếp đoàn Trương Hiển Khanh, không khí “thân thiện” năm 1289 không còn nữa. Trương Hiển Khanh (tên là Lập Đạo) đã hai lần đi sứ Đại Việt. Năm 1265 sang tuyên dụ chỉ vua Nguyên, lần này cũng tuyên dụ chỉ đòi vua Trần vào chầu, tạo một cái cớ để tiếp tục đánh Đại Việt lần thứ tư. Nhưng Trương Hiển Khanh là một sứ giả có chữ nghĩa, cuộc tiếp Trương của Trần Nhân Tông đã trở thành một cuộc đối thoại, tranh luận về “trách nhiệm” của Thiên triều và “cái lỗi” của vua Trần trong sự kiện hai lần quân Nguyên vào tàn phá Đại Việt. Có vẻ như cuộc luận đàm không theo chiều hướng của nhà Nguyên nên cuối buổi gặp gỡ Trương Hiển Khanh phải nói: “... Nói không hết lời, nên làm một bài giảng nghị để phô bày cho cùng lý”. Và trong bài giảng nghị đó, Trương Hiển Khanh đã nêu ba điều khuyên vua nhà Trần phải theo, đó là: đừng cậy đất hiểm, dân đông mà phải biết đạo trời, nghĩa là phải noi theo nước Tống, hãy thần phục nhà Nguyên, răm rắp làm theo mọi yêu cầu của Hốt Tất Liệt!

Trần Nhân Tông không nói gì thêm nữa, chỉ tặng một bài thơ kèm một mâm bánh, nhưng ý tứ khẳng định Đại Việt là đất nước của một dân tộc có văn hóa, lịch sử và truyền thống, một dân tộc như thế chỉ theo cổ nhân của mình, không thể dễ dàng trao vào tay người khác, học theo cái đạo lý mà người ta, kể cả người có học như Trương Hiển Khanh, đã phải bẻ cong đi để phục vụ tân triều:

"Giá chi vũ bãi thí xuân sam,

Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.

Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,

Tòng lai phong tục cựu An Nam."

Trần Lê Văn dịch:

Múa giá chi rồi thử áo xuân,

Hôm nay, huống gặp buổi thanh thần.

Bánh rau đầy đặn như hồng ngọc,

Nước Việt, tục này theo cổ nhân.

Cuối cùng Trương Hiển Khanh cũng phải có một cách nhìn khác về Đại Việt, bài thơ của vị sứ giả này khi rời Đại Việt biểu thị tâm trạng chấp nhận một thực tế mới mà chính ông đã quan sát được: Đại Việt là nước nhỏ, nhưng có văn chương, không thể nói bừa họ là ếch ngồi đáy giếng.

"Dao vọng thương yên tỏa mộ hà,

Thị triều nhân viễn cách yên hoa.

Cô hư đình viện vô đa sở,

Thịnh mậu viên lâm chỉ nhất gia.

Nam chú hùng tân Thiên Hán thủy,

Đông khai cao thụ mộc miên hoa.

An Nam tuy tiểu văn chương tại,

Vị khả khinh đàm tỉnh để oa."

Bản dịch An Nam chí lược:

Ngắm cảnh chiều hôm khói mịt mờ,

Xa nơi thành thị đỡ huyên hoa.

Quạnh hiu đình viện không nhiều sở,

Tươi tốt vườn cây chỉ một nhà.

Thiên Hán bến Nam tuôn mạch nước,

Mộc miên cây lớn trổ cành hoa.

An Nam tuy nhỏ văn chương thịnh,

“Ếch giếng”, khuyên đừng chế giễu ngoa.

Đấy là một thành công lớn của Nhân Tông trên phương diện hoạt động ngoại giao, trong đó phải kể cả đến bài thơ Tặng Trương Hiển Khanh bánh xuân. Bài thơ giọng điệu trang nhã, vừa rất ân cần với khách vừa rất tự tôn văn hoá dân tộc. Không biết Trần Nhân Tông có biết đến câu chuyện Tấn Văn Công vô tâm bỏ quên người bề tôi trung thành đã cắt thịt mình cứu ông khỏi chết đói trong cơn hoạn nạn để tiết hàn thực đầu xuân trở thành một ngày tết buồn hay không, nhưng nhà vua nhấn mạnh với Trương Hiển Khanh “mồng ba tháng ba” đối với Đại Việt là tuần tiết vui, một lễ hội của phong tục cổ, có múa hát, có mặc áo mới và ăn một thứ bánh có rau, trong suốt như “hồng ngọc”. Hơn thế, Trần Nhân Tông trong một hoàn cảnh tương tự đã không quên người lính dâng vua một bát cơm hẩm, nhà vua ban tước cho anh ta và sau này khi đất nước đã thanh bình, mỗi lần đi đâu gặp gia nhân của các vương hầu đều gọi lại thăm hỏi và còn răn bảo các vệ sĩ không được đánh mắng họ. Chẳng biết có nên coi là suy diễn hay không, nhưng xét ra bài thơ hai mươi tám chữ tặng Trương Hiển Khanh của Trần Nhân Tông quả là có một chiều sâu tư tưởng, một vẻ đẹp nhân văn rất đáng để hậu thế chiêm ngưỡng(5).

Lần thứ ba, vào năm 1794, tiếp đoàn Lý Trọng Tân (tên chính là Lý Hành) và Tiêu Phương Nhai (tên chính là Thái Đăng). Năm này Hốt Tất Liệt chết, Nguyên Thành Tông lên nối ngôi. Thực tế hơn “tiên đế”, Thành Tông xuống chiếu bãi bỏ cuộc “Nam chinh” lần thứ tư, mặc dù binh mã đã áp xuống gần biên giới phía Bắc Đại Việt. Đoàn sứ Lý Trọng Tân sang Đại Việt chỉ có nhiệm vụ báo tin vua mới lên ngôi và tuyên bố tờ chiếu bãi binh đó. Có lẽ trong lịch sử bang giao giữa Đại Việt và nhà Nguyên, đây là đoàn sứ giả đầu tiên đến nước ta với mục đích hòa bình, cho nên chủ và khách đều được “thư tâm”, Trần Nhân Tông lúc đó đã nhường ngôi, và theo Lê Mạnh Thát thì đây là “một trong những cuộc đón tiếp ngoại giao mà Thượng hoàng ưng ý nhất”(6), bữa tiệc chia tay nồng ấm và bài thơ Tiễn Bắc sứ Lý Trọng Tân, Tiêu Phương Nhai “phơi phới” niềm vui:

"Khảm khảm Linh Trì noãn tiễn diên,

Xuân phong vô kế trụ quy tiên.

Bất tri lưỡng điểm thiều tinh phúc,

Kỷ độ quang mang chiếu Việt thiên."

Trần Lê Văn dịch:

Sâu thẳm Linh Trì nồng rượu ấm,

Gió xuân không giữ được người về.

Chẳng hay sao sứ hai ngôi phúc,

Còn chiếu trời Nam mấy khắc khuya.

Trọng Tân và Tiêu Phương Nhai đều có thơ họa, Phương Nhai hoạ nguyên vần ngay trong bữa tiệc:

"Xuân phong hoa vũ lạc tân diên,

Tống trước quy kỳ khán trước tiên.

Tòng thử An Nam thành (?) thổ,

Tiểu tâm đại (?) đới Nghiêu thiên(7)."

Bản dịch của An Nam chí lược như sau:

Tiệc khách mưa xuân lấm tấm rơi,

Đường về giục giã ngựa tra roi.

Từ nay Nam thổ thêm vui vẻ,

Nghiêu Đế mừng chung đội một trời.

Lần thứ tư, năm 1301, trước khi đi Chiêm Thành, Nhân Tông còn thay mặt con (Trần Anh Tông) tiếp đoàn sứ Thiên triều Ma Hợp và Kiều Nguyên Lãng. Đoàn sứ lần này chỉ có nhiệm vụ nhắc nhà Trần cứ theo đúng lệ vào cống tiến, sứ Nguyên sẽ không sang nữa. Chắc chắn đây là một tin vui, nền hòa bình, về lý, đã được đặt vững. Sứ giả tặng thơ, Trần Nhân Tông họa thơ, làm thơ tiễn. Lời thơ của Thượng hoàng bày tỏ niềm quyến luyến lúc chia tay:

"Minh nhật Lô giang yên thỏa khoát,

Bồ đào nộn lục tẩy tâm đàm."

Lời dịch của nhóm Lê Quý Đôn:

Mai sớm sông Lô mây nước thẳm,

Bồ đào rượu ngọt rưới khuây lòng.

Tuy vậy đối với vị chánh sứ, Nhân Tông cũng không quên nhắc lại sáu điều Hốt Tất Liệt đã hứa trong tờ chiếu năm Trung Thống về chủ quyền của An Nam:

"Đỉnh ngữ nguyện ôn Trung Thống chiếu,

Miễn giao ưu quốc mỗi như đàm."

Trần Lê Văn dịch:

Trung Thống, chiếu xưa, lời hãy nhớ,

Nỗi lo đất nước dịu lòng tôi.

Đọc lại cả 5 bài thơ tiếp sứ của Trần Nhân Tông có thể thấy rất rõ một điều: chưa một lúc nào nhà vua xao nhãng tinh thần cảnh giác. Trên thực tế, trong bang giao, đàm luận, dù thân thiện hay căng thẳng, nhà vua đều rất mềm mỏng, nhún nhường, nhưng đối với vấn đề nguyên tắc là bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước thì quyết không nhân nhượng một ly. Để thực hiện mục tiêu đó, những bài thơ thù tạc của Nhân Tông với sứ giả vừa sâu xa về ý tứ lại cũng vừa tao nhã về ngôn từ, khiến cho trước những vấn đề khô khan gay cấn cũng tạo được sự thân thiện và có tính thuyết phục cao. Viên Mai (1716 - 1798), nhà thơ, nhà lý luận văn học Trung Quốc đời Thanh từng cho rằng thơ ứng thù cũng như các loại thơ khác, đều phụ thuộc vào thi tài của thi nhân, “... Thơ không hay là tại mình làm chứ liên quan gì đến thể loại”(8). Cũng có thể nghiệm thấy điều đó từ những vần thơ tiếp sứ của Trần Nhân Tông.

*

Ngoài những bài thơ trong mạch đề tài thế tục vừa phân tích, số bài được làm với cái tâm, cái tứ, cái nhìn, cái cảm của thi nhân - thiền gia của Trần Nhân Tông chỉ chừng hai chục bài. Những bài ấy có lẽ được sáng tác trong thời gian nhà vua đã hoàn thành trách nhiệm mà vua cha Trần Thánh Tông giao phó, lãnh đạo dân tộc hai lần đánh bại kẻ thù xâm lược hùng mạnh nhất toàn cầu đương thời, xây dựng vương triều vững mạnh, đất nước thái hoà, và nếu chưa hoàn toàn “trút bỏ được chiếc dép rách” mà ngồi nơi “nệm cỏ giường thiền” thì cũng đã giác ngộ, “hiểu rõ lẽ sắc không”. Trần Nhân Tông được coi là nhà thơ Thiền tiêu biểu thời Trần, chắc chắn những bài thơ ấy phải thể hiện, ít hoặc nhiều, cảm quan, tư tưởng Thiền của Phật Hoàng. Nhưng Thiền vốn “vô ngôn”, đem những lời thế tục để giảng giải thế tất khó có thể chuyển tải được những ý tưởng thâm thuý cao siêu, vi diệu của Thiền, như vậy hà tất phải nói gì ! Tuy nhiên chủ thuyết của Phật Hoàng lại là “Hoà quang đồng trần”, “Cư trần lạc đạo”, và nếu như vậy thơ ca của người cũng không hẳn là điều chúng nhân không thể cảm nhận và thụ hưởng. Tôi tin rằng, người đọc dù thế tục hay Thiền giả chắc chắn đều cảm nhận được vẻ đẹp rất tinh tế, vừa cao siêu vừa gần gũi đến “quyến rũ” của những vần thơ của Trần Nhân Tông. Và như vậy, sự chia sẻ những cảm nhận có thể cũng là một cách để nhân lên niềm vui đạo “tùy duyên” khi con người đang ở giữa cõi trần muôn vàn nhiêu khê này chăng?

Đọc thơ Trần Nhân Tông, tôi cảm nhận được một trong những vẻ đẹp ở thơ của người là “cái đạm”. Thơ của người là thi - họa, mỗi bài thơ như một bức tranh thuỷ mặc chấm phá, không có những cảnh náo nhiệt, những màu đậm, gắt mà được vẽ bằng những gam màu nhạt, nhưng trong sáng. Có cái đạm một buổi chiều phủ Thiên Trường, có cái đạm một chiều thu ở Vũ Lâm, một chiều thu ở Châu Lạng, một buổi cuối xuân ở sơn phòng, ở nhà thuỷ tạ chùa Phổ Minh, một buổi chớm xuân trên núi Bảo Đài, ngay cả một đêm xuân, một ngày xuân trong cung... Thơ của Trần Nhân Tông ở mạch cảm hứng này có nhiều khói sương mây gió, có ánh nắng tà, có trăng, hoa, chim muông, núi sông, thuyền câu, chùa chiền, cây cỏ, thôn làng và có những “hình bóng” con người ... Đấy là những khung cảnh có thật, hiện hữu, nhưng dường như trong cách nhìn của thi nhân, trong cái “sát na” ngắm nhìn đó, tất cả đều đã được chưng cất, thăng hoa để trở nên vĩnh hằng - cái sát na vĩnh hằng. Có thể kiểm nghiệm điều đó đối với từng cảnh thơ. Đó là buổi chiều thu ở Vũ Lâm còn một vệt nắng tà khiến có thể thấy lòng suối in bóng cầu hoa, cảnh rõ và thật, nhưng rồi tiếng chuông chùa xa vẳng trong những đám mây nặng hơi nước, cũng thật, nhưng vẫn khiến cho cảnh vật trở nên mơ hồ. Cái cảnh chiều thu Vũ Lâm vừa thực vừa mơ hồ đó sẽ là vĩnh cửu - một sát na vĩnh cửu trong tâm tưởng mà thi nhân gửi lại. Cái đạm của buổi chiều thu Châu Lạng lại có lá đỏ, có chim âu trắng, có tiếng chuông chùa, có thuyền câu nhưng bên cạnh đó vẫn là một cảnh chùa lạnh lẽo mờ trong khói sương. Chiều Châu Lạng nhiều xao động hơn chiều thu Vũ Lâm nhưng vẫn đẹp vì rất đạm. Có thể tìm những vẻ đẹp của cái đạm trong nhiều bài thơ khác, Nguyệt, Sơn phòng mạn hứng..., nhưng tôi xin dừng lại để kiểm nghiệm cảm nghĩ của mình ở ba bài thơ sau đây: Thiên Trường vãn vọng, Đăng Bảo Đài sơn và Tảo mai.

Thứ nhất là bài Thiên Trường vãn vọng (Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường). Bài thơ đã có quá nhiều lời giải (gần như ai đến với thơ Trần Nhân Tông đều để ý trước tiên đến bài Thiên Trường vãn vọng, đến mức có thể viết thành một mục “Lịch sử vấn đề”. Nếu tóm tắt lại có thể tạm nêu thành hai loại kiến giải. Sư Minh Đức Triều Tầm Ảnh(9) dường như cùng một cách lý giải với Nguyễn Kim Sơn và Trần Thị Mỹ Hoà, coi đó là bài thơ thể hiện ý tưởng thiền một cách “kín đáo ẩn tàng, không lộ liễu” (Minh Đức) và “ngộ được thiền ý trong đó không phải là đơn giản” (Nguyễn Kim Sơn và Mĩ Hà)(10); Lê Trí Viễn, Nguyễn Khắc Phi thì cho rằng bài thơ có cảm quan thiền, “nhuốm tư tưởng thiền” nhưng chủ yếu là “chứa đựng tư tưởng lớn lao kì vĩ và có ý nghĩa hiện thực sâu rộng”. Có thể xem trên đây là hai xu hướng chính của cách hiểu bài Thiên Trường vãn vọng, người viết bài này chỉ muốn nêu một ý, đó là sở dĩ bài thơ đạt được đến vẻ đẹp lôi cuốn đến vậy chính là ở nét bút “đạm” của Nhân Tông. Bài thơ đúng ra không có màu xanh của đồng lúa, không có màu nắng rực rỡ, cũng không có màu lam của khói chiều, mà tất cả mọi màu sắc đều ở gam màu nhạt - “đạm”, có chăng chỉ có cánh cò trắng là hiển lộ, nhưng vì nó là màu trắng nên cũng là gam màu “đạm”. Bài thơ như một bức tranh mà nói như Nguyễn Khắc Phi “dựng lên được một không gian nghệ thuật mang tính lập thể”(11), có xa - thôn làng trong đường viền mờ như khói (trước thôn, sau thôn) dưới ánh chiều tà - và gần - cánh đồng, đàn trẻ đang dong trâu về thong thả trong tiếng sáo; có cao là từng không với những cánh cò trắng bay và thấp là cánh đồng từng đôi cò đang hạ cánh.

Tứ thiền, cảm quan thiền ở đây là quan niệm về “có - không”; cái “có - không” cảm nhận được từ thị giác, nhưng “có - không” cũng còn được cảm nhận qua ánh nắng chiều, cái khoảng thời gian đang ở biên độ mong manh giữa sáng và tối. Nhưng Thiên Trường là quê hương Trần Nhân Tông, ở đấy có hành cung Thiên Trường mang tên cung Trùng Hoa và một số cung điện khác. Cho nên “Cảnh chiều ở Thiên Trường” là một cảnh quan có thật, đến cả cái vẻ thiền nhất là màu đạm nhòa khói sương của thôn làng cũng rất thật. Bởi lẽ thời điểm bấy giờ đã là chiều tà. Khói chiều, tôi nghĩ đây chính là khói chứ không phải sương, bay lên từ những mái tranh rồi lan tỏa khiến nó trở nên một mảng nhạt mờ viền quanh thôn xóm cũng là cảnh thật; thế rồi trẻ trâu, tiếng sáo, cánh cò và cả nắng chiều mơ hồ cũng đều là cảnh có thể rất thật. Một làng quê có khói chiều, có trẻ em chăn trâu, buổi chiều dong trâu về trong tiếng sáo, có cánh cò, những đôi cò trắng sóng đôi đậu xuống cánh đồng tìm ăn(12) là hình tượng gợi lên sự no ấm thanh bình, là khoảnh khắc và cũng là vĩnh cửu. Bởi lẽ hình ảnh khói lam chiều, tiếng sáo trẻ trâu, cánh cò vẫn còn là những hình tượng đẹp trong thơ mới, trong tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn đầu thế kỷ XX. Và tiếng sáo trẻ trâu buổi hoàng hôn cũng từng gợi trong Chủ tịch Hồ Chí Minh một tứ thơ vui trong những ngày tù đầy gian khổ trên đất Trung Hoa: "Mục đồng xuy địch dẫn ngưu quy" (Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay - Hoàng hôn, Nhật ký trong tù). Cảnh chiều ở Thiên Trường quả đúng là một cảnh làng quê thanh bình, an lạc lý tưởng không riêng chỉ của một thời xa xưa. Nhưng mặt khác trong con mắt thơ và Thiền của Trần Nhân Tông cảnh thực đã được thăng hoa, mang ý nghĩa của quan niệm thiền “ở đời vui đạo”. Và cũng bởi lẽ Thiên Trường, Lạng Châu đều là những nơi đã từng bị gót giày xâm lược của quân Nguyên tràn qua, tàn phá; đứng vững và trở lại được cảnh thanh bình hiện hữu mà tác giả được thấy quả là “nhờ phúc tổ tông”, cho nên niềm vui được nhân lên, sự trân trọng cái hạnh phúc hiện hữu được nhân lên, nhưng không hẳn trong niềm vui, hạnh phúc không còn thấp thoáng những dấu vết khổ đau, âu lo, đem lại những cảm xúc, suy tư trái chiều... Đúng như ý kiến của Nguyễn Khắc Phi: “Thiên Trường vãn vọng là một tuyệt tác, một trong những bài thơ tứ tuyệt Đường luật cô đọng nhất, một trong những bài thơ trữ tình hay nhất của văn học trung đại Việt Nam”.

Bài thứ hai là Đăng Bảo Đài sơn. Nguyên văn bài thơ như sau:

"Địa tịch đài du cổ,

Thời lai xuân vị thâm.

Vân sơn tương viễn cận,

Hoa kính bán tình âm.

Vạn sự thủy lưu thủy,

Bách niên tâm ngữ tâm.

Ỷ lan hoành ngọc địch,

Minh nguyệt mãn hung khâm."

Bản dịch:

Đất vắng lâu đài thêm cổ xưa,

Xuân sang vừa đó mới theo mùa.

Gần xa, thấp thoáng mây lồng núi,

Nắng rợp mơ hồ một ngõ hoa.

Nước đẩy nước trôi đời vạn sự,

Tâm nghe lòng nhủ một mình ta.

Nâng ngang sáo ngọc bên thềm vắng,

Đầy ngực trăng trong tỏa ánh ngà.

Bảo Đài là một ngọn núi thuộc dãy Yên Tử, Đông Triều, nhà thơ đến vào lúc chớm xuân. Cảnh rất thực. Yên Tử thời Trần chắc chắn còn là miền đất hẻo lánh, núi rừng xa xôi; không rõ toà đài này có từ bao giờ, có phải cũng là một hành cung đời Trần, vì đất quạnh nên trông có vẻ cổ kính hơn và vì thời tiết lúc đó mới đầu xuân, nhiều mây, nắng mưa bất chợt, cho nên núi và mây trở nên mờ ảo như xa lại như gần, còn ngõ hoa thì chỗ râm chỗ nắng. Bốn câu đầu bài thơ là cảnh núi Bảo Đài được vẽ toàn bằng màu nhạt, không một chi tiết nào tô đậm, không một nét màu tươi và chính vì thế mà tứ thơ trở nên sâu sắc, gợi những liên tưởng miên man xa vời. Bốn câu sau nhà thơ dành cho tâm tình. Một triết lý rất thiền và cũng rất thế tục: vạn sự ở đời cứ trôi chảy, như nước đẩy nước xuôi, ngoài ý muốn con người, chỉ có cái tâm, cái tâm nhà thơ là muôn thuở tự vấn, tự nhủ, đơn côi là tồn tại vĩnh hằng. Đó cũng là điều nhà thơ chấp nhận, hai câu cuối bài thơ biểu đạt trạng thái tâm cảnh ấy. Có những tâm sự gì nhà thơ gửi trong tiếng sáo ngọc khi ông tựa lan can, có chăng chỉ ánh trăng trong chan hòa tỏa đầy ngực ông là hiểu ! Đăng Bảo Đài sơn cũng là một bài thơ thể hiện sự quan sát và cách biểu đạt tinh tế của Trần Nhân Tông. Bài thơ không có một từ chỉ màu sắc nhưng màu sắc của cảnh quan vẫn như hiển hiện, trái lại những động từ chỉ hành động "lưu, ngữ, hoành" lại có thể chẳng tạo nên một hành động nào, "thủy lưu thủy" cũng như "tâm ngữ tâm", có “chuyển tới” một đối tượng nào đâu, chỉ là mình với mình mà thôiNgay cả động tác “nâng ngang sáo ngọc” cũng chưa chắc đã tạo ra một âm thanh nào, bởi vì chưa chắc người cầm sáo đã đi đến hành động cuối cùng của động tác: thổi sáo! Bài thơ là sự hòa quyện và chuyển hóa tinh tế, nhuần nhuyễn giữa tĩnh và động, lại cũng đạt đến vẻ đẹp độc đáo của cái “đạm” trong bút pháp thơ.

Bài thứ ba là Tảo mai. Có biết bao nhà thơ phương Đông đã vịnh hoa mai nhưng Nhân Tông vẫn đến với hoa mai bằng những rung cảm riêng vừa thâm trầm tinh tế, vừa sắc sảo nồng nàn:

Năm cánh hoa tròn nhị điểm vàng,

San hô, vảy bạc vẻ tân trang.

Cuối đông san sát cành khoe trắng,

Một thoáng xuân về đã rụng quang.

Móc ngọt chảy thơm tan giấc bướm,

Trăng đêm loáng nước khát chim rừng.

Hằng Nga ví biết hoa mai đẹp,

Đâu tiếc cung thiềm lạnh quế hương.

Mấy ngày ngại rét lười ra cửa,

Gió ấm đang về bên gốc mai.

Bóng ngả trên sông băng mới rạn,

Đầu cành e ấp vẻ xuân phơi.

Họa long, sáo ướt mây quan ải,

Thúy vũ, ca chìm trăng xóm đồi.

Tỉnh giấc bâng khuâng lòng bạn cũ,

Khôn đem hoa mộng tặng đưa ai.

(Tảo mai)

Trong truyền thống thơ phương Đông người ta thường khai thác ở cây mai vẻ cứng rắn, bất chấp gió sương, song Trần Nhân Tông chỉ cực tả vẻ đẹp bản nhiên của những cánh hoa mỏng mảnh, một vẻ đẹp tinh khiết mà linh động, hấp dẫn: cánh trắng điểm nhị vàng, óng ánh như bóng san hô chìm, như vảy cá nổi; khi nở rộ thì trắng vườn, tỏa hương thơm dịu ngọt, khi hết còn lại vài bông thì e ấp đầu cành… Những bông hoa mai ấy rất thực nhưng dường như lại ảo. Suốt tháng cuối đông, hoa khoe sắc, thu hút cảm giác vạn vật, thách thức cả cây quế cung thiềm; thế mà chỉ qua vài hôm, mùa xuân chợt đến là màu trắng rạng rỡ ấy đã tan biến đi như một phép lạ. Những đóa hoa mai của Nhân Tông gần gũi nhưng xa vời biết bao! Hương thơm của hoa làm chú bướm si mê phải giật mình tỉnh giấc; sắc hoa hòa ánh trăng loang loáng như nước làm cho con chim đang khát cháy cổ thêm buồn rầu; cành mai tươi đẹp rơi vào giấc mộng cố nhân khiến cho người tỉnh giấc càng bâng khuâng vì hoa chỉ là hoa trong mộng! Trần Nhân Tông thật đã viết những vần thơ độc đáo và tinh tế về hoa mai.

Các nhà am hiểu Thiền học có thể khen Tảo mai là bài thơ Thiền đặc sắc. Bởi lẽ ở đây “cái sắc” và “cái không” quyện vào nhau bao nhiêu thì cái ham muốn và cái được nhận, cái thực và cái mộng lại cách xa nhau bấy nhiêu. Dường như bài thơ là một lời chỉ dẫn cho đệ tử “cái vô thường” của vạn vật để từ đó biết hạn chế những dục vọng trong cuộc đời! Thế nhưng nếu bằng những cảm xúc hoàn toàn thế tục, người đọc cũng không thể phủ nhận giá trị thẩm mỹ của những vần thơ này và cũng như tác giả vừa xúc động vừa bâng khuâng trước vẻ đẹp của những cành mai sớm ấy.

Viên Mai (1716-1798), sống sau Nhân Tông gần năm trăm năm cũng có hai câu thơ về hoa mai cấu tứ giống như thơ Nhân Tông:

"Chỉ liên hương tuyết mai thiên thụ,

Bất đắc tùy thân đới thượng thuyền."

(Tiếc thay thơm tuyết mai nghìn gốc,

Chẳng thể mang theo cùng xuống thuyền).(13)

Nhưng câu thơ của Trần Nhân Tông hay hơn, gây được cảm xúc mạnh hơn, bởi ở Trần Nhân Tông cái tình sâu hơn do xuyên suốt cả quá khứ và hiện tại, do tính huyễn ảo giữa mộng và thực, tạo nên tính bất khả thi cao hơn, và có thể còn vì đậm ý vị thiền.

Viên Mai khi bàn về thơ có nói: “Thơ nên đạm không nên nồng nhưng phải là cái đạm sau khi đã nồng”. Viên Mai không giải thích rõ thế nào là đạm và nồng, còn nhà triết học Pháp Francois Jullien thì đưa cái đạm trở về với nguồn gốc triết học là Đạo. Ông cũng coi cái đạm (sách dịch là nhạt) là lý tưởng sáng tạo thơ ca. Ông dẫn ra bài thơ Lộc sài của Vương Duy mà các nhà bình luận Trung Hoa đều coi là tiêu biểu cho vẻ đẹp của cái nhạt:

"Không sơn bất kiến nhân,

Đãn văn nhân ngữ hưởng.

Phản ảnh nhập thâm lâm,

Phục chiếu thanh đài thượng."

(Núi vắng chẳng thấy ai,

Chỉ nghe vọng tiếng người.

Ánh mặt trời lặn xuyên rừng sâu,

Còn dọi trở lại trên rêu xanh)

Ông dẫn lời một nhà bình luận Trung Hoa về bài thơ này: “Thơ tôn vinh tầm cỡ ý nghĩa, còn tầm cỡ ý nghĩa tôn vinh cái gì xa chứ không gần, tôn vinh cái "nhạt" chứ không phải cái "đậm" (cái nổi): cái gì đậm và gần thì dễ nhận ra trong khi cái gì nhạt và xa thì ta khó mà ý thức được”. Theo F. Jullien “Cái nhạt trong thơ sở dĩ có được là do nghĩa của thơ không xuất hiện (theo cách này hay cách khác), nó thể hiện qua hiện tượng và tình huống mà không bao giờ áp đặt cho ta. Không có gì lôi kéo sự chú ý cũng như hiện ra để ám lấy ta, tất cả những gì bắt đầu hình thành liền rút lui và biến hóa”(14). Như vậy có thể hiểu rằng người đọc thơ có thể nắm bắt được vẻ đẹp cái đạm của thơ chỉ bằng cách cảm nhận trực giác và có thể rất tự do.

Nhiều bài thơ của Nhân Tông đã đạt đến cái vị “đạm” ấy, trong đó Thiên Trường vãn vọng, Đăng Bảo Đài sơn là những bài tiêu biểu, còn Tảo mai không chỉ được miêu tả bằng riêng bút pháp đạm mà có sự kết hợp nhuần nhuyễn, bổ sung cho nhau giữa cái đạm và cái nồng (nghĩa là sự hiển lộ hay đúng hơn là mức độ nồng nàn) để tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Phải chăng nên coi Tảo mai đã đạt được vẻ đẹp của cái đạm sau khi đã nồng? Có điều đối với Trần Nhân Tông, dường như mỗi bài thơ đều đã đạt được một vẻ đẹp “quyến rũ” riêng, ngay cả những bài thơ “nồng” như Xuân nhật yết Chiêu Lăng, Xuân hiểu... chắc gì đã thua kém những bài thơ “đạm”. Như vậy dường như để tiếp cận được vẻ đẹp đến mức trở thành triết mỹ của thơ Trần Nhân Tông, người ta không nên và không thể chỉ chú mục vào một điểm, vào cái lý lẽ hiển nhiên mà phải để cho tâm tưởng phiêu diêu cùng sương khói đến cõi của cái đạm hoặc cái nồng trên nền cái đạm với một chút mơ hồ “bán vô bán hữu”. Thơ của Trần Nhân Tông có những bài là thơ kệ thuyết giảng về thiền, có những bài mang cảm quan thiền mà các nhà nghiên cứu đang còn tranh cãi xem có nên gọi là thơ thiền hay không, nhưng dù với bất cứ tên gọi nào đối với thơ của người cũng có thể nói như Nguyễn Huy Oánh “Nhân bả thi tâm ngộ Phật tâm”(15), nghĩa là nhân tấm lòng thơ mà hiểu tâm Phật, hiểu thiền, hoặc ngược lại từ sự liễu ngộ về thiền mà cảm thụ được thơ.

Trần Nhân Tông là một nhà thơ - Hoàng đế - Thiền gia có phong cách riêng, một nhà thơ lớn và tài hoa vào bậc nhất đời Trần.

 

Chú thích:

(1) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Nxb. Nxb. KHXH, H. 1985.

(2) Thơ văn Lý - Trần, Tập II, Quyển thượng, Nxb. KHXH, H. 1989.

(3) Trần Nhân Tông toàn tập của Lê Mạnh Thát, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 2000.

(4) Chữ của Lê Mạnh Thát, Sđd.

(5) Tương truyền Tấn Văn Công trong những ngày gian khổ mưu cầu sự nghiệp bá vương, có lúc bị đói, Giới Chi Thôi đã cắt thịt đùi mình dâng ông ăn. Sau khi thành công, khen thưởng, Tấn Văn Công quên Giới Tử Thôi, Giới hận bỏ vào núi ở ẩn, sau Văn Công nhớ ra triệu vời nhưng Giới không đến; Văn Công sai đốt rừng, Giới Tử Thôi đành chịu chết cháy chứ nhất định không ra. Tấn Văn Công hối hận, từ đó sai lệnh cấm lửa trong ngày này (mồng 3 tháng 3) để tưởng nhớ người bề tôi trung thành mà ông vì vô tâm đã bỏ quên. Tuy vậy, theo sách Kinh Sở tuế thời ký thì tiết đông 105 ngày, sau đó có mưa to gió lớn, gọi là tiết Hàn thực, người ta cấm lửa trong 3 ngày. Lời chú của sách này viết: theo lịch thì tiết ấy vào khoảng trước thanh minh 2 ngày, cách ngày đông chí 106 ngày. Một sách biệt lục của Lưu Hướng cũng nói tiết Hàn thực có từ đời Chu, gắn với truyện Giới Tử Thôi là từ thời Hậu Hán. Như vậy có thể nói ngày 3 tháng 3 là một lễ hội của cư dân nông nghiệp phía Nam, từ vùng Kinh Sở trở xuống. Vì thế Nhân Tông mới nhấn mạnh đây là “phong tục cổ của An Nam.”

Người lính dâng cơm hẩm cho vua Nhân Tông tên là Trần Lai. Những sự việc này đều được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư, Quyển V, vào các năm 1284, 1292.

(6) Trần Nhân Tông toàn tập, Sđd.

(7) Bài này trong bản chụp của Nxb. Thuận Hoá rất mờ, những chữ không đọc được, chúng tôi tạm ghi ( ?).

(8) Những ý kiến về Viên Mai trích trong bài đều theo Tùy Viên thi thoại, Nguyễn Đức Vân dịch, Nguyễn Phúc giới thiệu, tuyển chọn; Nxb. Giáo dục, H. 1999.

(9) Xin xem bài Tìm lại chút hương non xanh mây tía trong Kỷ yếu.

(10) Chuyển dẫn theo Nguyễn Khắc Phi trong bài Thiên Trường vãn vọng, một kiệt tác của Trần Nhân Tông trong Kỷ yếu.

(11) Xem chú thích 2.

(12) Có ý kiến cho rằng phải dịch câu Bạch lộ song song phi hạ điền là: “Từng đôi cò trắng bay trên cánh đồng (về tổ)”, bởi cò không ăn đêm, chiều tối chúng bay về tổ. Thoạt nghe có vẻ hữu lý, bởi vạc mới là loài chim ăn đêm, nhưng thực ra thời gian của bài thơ chưa phải là tối - đêm, hơn thế bản thân người viết bài này thuở bé khi “chạy tản cư” về thôn quê đã chứng kiến cảnh những con cò tìm ăn trên cánh đồng vào những buổi chiều, kể cả khi trời đã muộn.

(13) Trích trong Tùy Viên thi thoại, Sđd

(14) F. Jullien: Bàn về cái nhạt, Trương Thị An Na dịch, in trong Minh triết phương Đông và Triết học phương Tây, Nxb. Đà Nẵng, 2004.

(15) Nguyễn Huy Oánh (1713 -1789), câu này trích trong bài họa thơ Ngô Thì Sĩ (1726-1780), bài Cách ngạn Thiền lâm (Ngôi chùa bên kia sông)./.

(Tạp chí Hán Nôm; Số 4 (94) 2009; Tr.3-14)

Post by: admin
18-02-2022