Nghiên cứu khoa học

TÂM THỨC  DÂN  GIAN  VỀ BA VỊ THÁNH TỪ ĐẠO  HẠNH, NGUYỄN MINH  KHÔNG VÀ DƯƠNG KHÔNG LỘ TRONG TÍN NGƯỠNG VÀ TẬP  TỤC THỜ CÚNG CỦA NGƯỜI VIỆT


02-11-2021

 

Khúc Mạnh Kiên

1. Mở đầu

Tiền Phật hậu Thánh là tên gọi một số chùa ở miền Bắc Việt Nam. Theo tác giả Phạm Thị Thu Hương (2017), có 25 ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh, còn tác giả Nguyễn Văn Quý (2012) cho rằng có khoảng 15 chùa, chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt ở Xứ Đoài. Theo khảo sát của chúng tôi, có khoảng 25 ngôi chùa thuộc dạng này. Có nhiều cách lý giải khác nhau về thuật ngữ tiền Phật hậu Thánh. Một số tác giả dựa vào các dã sử, truyền thuyết cũng như biện giải về mặt ngữ nghĩa của thuật ngữ thì cho rằng tiền Phật hậu Thánh là các ngôi chùa có gian tam bảo thờ Phật, và gian phía sau thờ Thánh, việc thờ Phật vẫn được chú trọng hơn thờ Thánh. Chu Quang Trứ cho rằng: “tiền Phật hậu Thánh là tên gọi mặt bằng dạng chùa thờ Phật là chính, thờ thánh là kết hợp và do đó nơi thờ thánh ở vị trí phụ” (2001: 105). Phần kiến trúc bao gồm nghi môn, hậu cung, tả hữu vu, gác chuông. Chùa tiền Phật hậu Thánh thờ các thiền sư vào thời kỳ Lý - Trần. Các thiền sư này tu tập hoặc chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư tưởng Mật giáo. Họ vừa có nhiều pháp thuật tinh thông lại vừa là những tổ nghề dạy dân đánh cá, đúc đồng, múa rối nước... và được dân gian thần thánh hóa, lập đền thờ. Chẳng hạn, thiền sư Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ thuộc thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci), Nguyễn Minh Không thuộc phái thiền Vô Ngôn Thông, theo truyền thuyết, đều có pháp thuật cao cường, thần thông biến hóa. Từ Đạo Hạnh đã đầu thai làm vua Lý Thần Tông, còn Nguyễn Minh Không được coi là chữa khỏi bệnh hóa hổ của vị vua này. Theo tác giả Phạm Thu Hương, những vị thánh này có chung những đặc điểm sau:

- Là c nhà sư có thật hoặc được nghĩ là có thật, có nguồn gốc tthời , Trần a slà thời Lý: 5/6 vị, chcó thánh Bối là ở thời Trần), đã từng tu hành hay liên quan đến một ngôi chùa cụ thể, hđược xem như những v Tkhai sáng bởi có côngy dựngn ngôi chùa đó.

- Trong c i liệu, thư tịch c(cnhững tư liệu của Phật giáo) đều gọi hlà thiền , nhưng trong thực tế, cách thức tu của nhiều nhà sư này mang nhiều yếu tMật tông, thậm chí n kết hợp với Đạo giáo và n ngưỡng n gian n theo thần tích, hít nhiều mang tính chất phù thủy, có phép thuật và kh năng hàng long phục hổ…

- Do có công với địa phương n sau khi chết, hđược nhân n n thành thánh, thtrong các ngôi chùa liên quan. Cho đến nay, vai trò của những vthánh y trong đời sống tinh thần của người n địa phương vẫn hết sức quan trọng và chưa h thay đổi (2017: 12).

i viết y đcập đến m thức n gian vba vthánh TĐạo Hạnh, Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ, nhưng chúng i đặt tâm thức y trong m thức n giáo của người Việt i chung. m thức n gian là m thức của người dân, và m thức y “bàng bạc”, ở khắp mọi nơi, luôn lan tỏa, không quá u sắc nhưng đủ đdẫn hướng hành động. Hầu hết những người không theo Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, v.v... thì đều đến chùa, đền đli cầu an, giải hạn... Tuy rất nhiều người đi lchùa thường xuyên, nhưng không phải ai cũng tnhận là Phật tử, là tín đPhật giáo vì hkhông quy y, cũng không biết gì vlễ, kinh. Dù vậy, ai cũng có thvào chùa, o đền đlPhật, lThánh, và có thmời nhà , thầy cúng m ltại chùa, đền, hoặc tại nhà thầy, tại nhà của chính mình. Vì thế i gọi là “tâm thứcluôn bàng bạc, nhưng lại lan tỏa, ẩn hiện ở trong cuộc sống thường nhật, trong tâm khảm của con người.

Dựa trên các tư liệu thành văn và tư liệu điền dã của cá nhân về việc thờ phụng Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không tại một số ngôi chùa tiêu biểu như chùa Thầy ở Hà Nội, chùa Đại Bi ở Nam Định (thờ Từ Đạo Hạnh); chùa Keo ở Nam Định và Thái Bình (thờ Dương Không Lộ), chùa (còn gọi là đền) Nguyễn ở Ninh Bình (thờ Nguyễn Minh Không), bài viết luận giải về quyền năng của ba vị thánh trong tâm thức dân gian của người Việt ở đồng bằng châu thổ Bắc Bộ(1).

2.  Ba vị thánh là phúc thần

2.1. Cầu tài, cầu lộc, cầu an, cầu duyên, cầu công danh sự nghiệp

Trong tâm thức dân gian, phần lớn các vị thánh được thờ cúng đều là phúc thần, là vị thần tối thượng mà người dân có thể cầu cúng, trông chờ sự che chở, trợ giúp mỗi khi gặp khó khăn, bệnh tật, tai ương trong đường đời. Điều này thể hiện càng rõ hơn trong tâm thức dân gian về việc thờ phụng ba vị thánh vừa là Phật, vừa là Thánh, xuất chúng, tài ba, đi mây về gió, có quyền năng vô biên.

Việc thờ phụng thể hiện ở nhiều hành vi tôn giáo, từ việc đi lễ chùa, đến việc làm lễ cúng và quan trọng trong tâm thức người dân hướng về các vị thánh và trông mong vào sự che chở, cứu giúp. Theo tập tục của người Việt, người dân thường đi lễ chùa vào dịp đầu xuân năm mới, mồng một hay ngày rằm hàng tháng. Họ đến chùa, đến đền cầu thỉnh tới thánh những mong ước đời thường. Theo bà Ngà, một bà “vãi” ở đền thánh Nguyễn (Ninh Bình), khi bước chân vào cửa Phật, cửa chùa là “người ta đặt niềm tin với Phật, với đức Thánh, thì người ta dễ giãi bày tấm lòng của mình, nói lên với nhà Ngài để Ngài giá hộ cho”(2).

Việc cầu cúng tới Phật, Thánh ít nhhiều

mang tính ma lực. Một người dân địa phương ở Thụy Khê (Sơn Tây), nơi thờ thánh Từ Đạo Hạnh, cho hay: “Đức Thánh tổ rất linh thiêng. Khi mình đặt niềm tin với nhà ngài, thì mình ‘ăn mày’ thánh tổ, để ngài gia hộ cho. Đối với người dân ở đây, ngài như một vị thần tối linh, giang tay cứu các con”(3).

chùa Bi (hay n là chùa Đại Bi, Nam

Giang, Nam Trực, Nam Định) ththánh TĐạo

 

Hạnh,n làng truyền tụng nhauu ca cổ: “20 [tháng giêng] phát tấu chùa Bi, Trai đi được vợ,i đi được chồng”

thhiện việc cầu duyên ở chùa Bi khá phbiến. Theo lời kcủa anh Bằng, một người n ở Nam Giang, Nam Định: “Khóa lcắt giải tiền duyên của chùa Bi khá hiệu quả. Trước đây có cô m kế toán, i là người dẫn cô y đến gặp cchùa, xin cầu cho cô y. Không biết là llạt thế nào, khoảng năm sau cô o tin là lấy một anh chồng bđội chuyên nghiệp”(4).

Việc cầu thỉnh đến c Thánh thật phong phú và đa dạng. Theo bà Ngà, “rất nhiều người muốn mua một thđất thì đều vđây m lcầu xin Ngài. Mua được rồi, người ta m ltạ. Còn chuyện mất tiền, mất của thì cũng vđây m sớ kêu Ngài, Ngài cho quthbiết ở phía đông, phía tây, n nếu không m thấy được thì không nên tìm nữa. Muốn thay nhà sang t cho ông bà mình được hay không thì cũng vcầu Ngài. Nếu được Ngài cho luôn, không phải vướng vấp gì thì làm, còn chưa được, hoặc động điều gì thì cũng biết mà tránh”(5).

Tương tnhư vậy, theo ông Dinh, một doanh nhân ở làng Tống , “đã đến đền là phải kêu tất, như gặp bệnh trọng đi bệnh viện là phải kêu cầu. Đây là tập tục và m linh của n làng. Trong cuộc sống có gì khó khăn muốn u cầu đến Thánh thì người n ra đền lThánh đcầu sức khỏe, công danh snghiệp, cầu duyên, cầu làm ăn phát đạt, cầu ký được hợp đồng hanh thông”(6).

Đi lễ, cầu cúng Đức Phật, c vthần thánh c chùa, điện thlà một sinh hoạt nghi lmà một bphận những người Việt không theo một tôn giáo chính thống o thường xuyên thực hành. Hcó thđi lo ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng, hoặc khi có công việc của cá nhân, gia đình. Việc đi lđcầu mong sche chở của c vthánh như là một san ủi, một điểm tựa tâm linh, một smong muốn có được những điều tốt đẹpn trong cuộc sống.

2.2. Cầu tự

u chuyện vcầu tkhá phbiến trong dân gian. Sau khi lập gia đình, nhiều cặp vchồng chưa có con, nhất là con trai phải chịu một áp lực, một sthôi thúc lớn. Trong hoàn cảnh y, h

Dựa trên các tư liệu thành văn và tư liệu điền dã của cá nhân về việc thờ phụng Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không tại một số ngôi chùa tiêu biểu như chùa Thầy ở Hà Nội, chùa Đại Bi ở Nam Định (thờ Từ Đạo Hạnh); chùa Keo ở Nam Định và Thái Bình (thờ Dương Không Lộ), chùa (còn gọi là đền) Nguyễn ở Ninh Bình (thờ Nguyễn Minh Không), bài viết luận giải về quyền năng của ba vị thánh trong tâm thức dân gian của người Việt ở đồng bằng châu thổ Bắc Bộ(1).

2.  Ba vị thánh là phúc thần

2.1. Cầu tài, cầu lộc, cầu an, cầu duyên, cầu công danh sự nghiệp

Trong tâm thức dân gian, phần lớn các vị thánh được thờ cúng đều là phúc thần, là vị thần tối thượng mà người dân có thể cầu cúng, trông chờ sự che chở, trợ giúp mỗi khi gặp khó khăn, bệnh tật, tai ương trong đường đời. Điều này thể hiện càng rõ hơn trong tâm thức dân gian về việc thờ phụng ba vị thánh vừa là Phật, vừa là Thánh, xuất chúng, tài ba, đi mây về gió, có quyền năng vô biên.

Việc thờ phụng thể hiện ở nhiều hành vi tôn giáo, từ việc đi lễ chùa, đến việc làm lễ cúng và quan trọng trong tâm thức người dân hướng về các vị thánh và trông mong vào sự che chở, cứu giúp. Theo tập tục của người Việt, người dân thường đi lễ chùa vào dịp đầu xuân năm mới, mồng một hay ngày rằm hàng tháng. Họ đến chùa, đến đền cầu thỉnh tới thánh những mong ước đời thường. Theo bà Ngà, một bà “vãi” ở đền thánh Nguyễn (Ninh Bình), khi bước chân vào cửa Phật, cửa chùa là “người ta đặt niềm tin với Phật, với đức Thánh, thì người ta dễ giãi bày tấm lòng của mình, nói lên với nhà Ngài để Ngài giá hộ cho”(2).

Việc cầu cúng tới Phật, Thánh ít nhhiều

mang tính ma lực. Một người dân địa phương ở Thụy Khê (Sơn Tây), nơi thờ thánh Từ Đạo Hạnh, cho hay: “Đức Thánh tổ rất linh thiêng. Khi mình đặt niềm tin với nhà ngài, thì mình ‘ăn mày’ thánh tổ, để ngài gia hộ cho. Đối với người dân ở đây, ngài như một vị thần tối linh, giang tay cứu các con”(3).

chùa Bi (hay n là chùa Đại Bi, Nam

Giang, Nam Trực, Nam Định) ththánh TĐạo

 

Hạnh,n làng truyền tụng nhauu ca cổ: “20 [tháng giêng] phát tấu chùa Bi, Trai đi được vợ,i đi được chồng”

thhiện việc cầu duyên ở chùa Bi khá phbiến. Theo lời kcủa anh Bằng, một người n ở Nam Giang, Nam Định: “Khóa lcắt giải tiền duyên của chùa Bi khá hiệu quả. Trước đây có cô m kế toán, i là người dẫn cô y đến gặp cchùa, xin cầu cho cô y. Không biết là llạt thế nào, khoảng năm sau cô o tin là lấy một anh chồng bđội chuyên nghiệp”(4).

Việc cầu thỉnh đến c Thánh thật phong phú và đa dạng. Theo bà Ngà, “rất nhiều người muốn mua một thđất thì đều vđây m lcầu xin Ngài. Mua được rồi, người ta m ltạ. Còn chuyện mất tiền, mất của thì cũng vđây m sớ kêu Ngài, Ngài cho quthbiết ở phía đông, phía tây, n nếu không m thấy được thì không nên tìm nữa. Muốn thay nhà sang t cho ông bà mình được hay không thì cũng vcầu Ngài. Nếu được Ngài cho luôn, không phải vướng vấp gì thì làm, còn chưa được, hoặc động điều gì thì cũng biết mà tránh”(5).

Tương tnhư vậy, theo ông Dinh, một doanh nhân ở làng Tống , “đã đến đền là phải kêu tất, như gặp bệnh trọng đi bệnh viện là phải kêu cầu. Đây là tập tục và m linh của n làng. Trong cuộc sống có gì khó khăn muốn u cầu đến Thánh thì người n ra đền lThánh đcầu sức khỏe, công danh snghiệp, cầu duyên, cầu làm ăn phát đạt, cầu ký được hợp đồng hanh thông”(6).

Đi lễ, cầu cúng Đức Phật, c vthần thánh c chùa, điện thlà một sinh hoạt nghi lmà một bphận những người Việt không theo một tôn giáo chính thống o thường xuyên thực hành. Hcó thđi lo ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng, hoặc khi có công việc của cá nhân, gia đình. Việc đi lđcầu mong sche chở của c vthánh như là một san ủi, một điểm tựa tâm linh, một smong muốn có được những điều tốt đẹpn trong cuộc sống.

2.2. Cầu tự

u chuyện vcầu tkhá phbiến trong dân gian. Sau khi lập gia đình, nhiều cặp vchồng chưa có con, nhất là con trai phải chịu một áp lực, một sthôi thúc lớn. Trong hoàn cảnh y, h

năng cao, có những khnăng n người, trong đó có chữa bệnhm linh. Charles Keyes khin về ma lực và tiểu slinh thiêng cũng cho rằng “phần lớn c vthánh và những người có ma lực được biết tới bởi kh năng chữa bệnh của hn là bởi bất kphẩm chất o khác. Động cơ mạnh mẽ nhằm m ra phương cách chấm dứt những bệnh nan y chưa từng được cứu chữa(Keyes 2006:

393). Vẫn theo Keyes, người được cho có khả năng chữa khỏi bệnh cho những người đối diện với tình trạng gần đất xa trời, hay những người mắc bệnh kinh niên, hoặc n tật u m có thể được n cho là có ma lực, và khnăng chữa bệnh của hđược diễn giải là tiếp nhận tthần thánh. Việc m kiếm chung của nhân loại đchặn đứng những tai ương khiến cho biện pháp chữa bệnh trở thành những dấu hiệu phbiến nhất của ma lực (Keyes 2006: 393).

Việc thỉnh cầu ba vthánh đchữa bệnh, một mặt phản ánh thực trạng chung của người Việt khi đi cầu cúng, mặt khác cũng phản ánh tâm thức vba vthánh và có sliên quan đến việc chữa bệnh thần kcho nhà vua của c vthánh theo huyền sử. TĐạo Hạnh, c tu ở chùa, là thầy lang n i i lá thuốc chữa cho n nhiều bệnh hiểm nghèo. Hiện nay, trên i i Sơn, theo người n kể, tại vườn dược sư n có rất nhiều loại thuốc nam, xưa, được đức Thánh tsdụng đ cứu dân.

u chuyện vchữa bệnh ở chùa Keo Nam Định cũng được lan truyền trong n gian. Theo ông Hùng, một mặt người m vẫn phải đi viện, mặt khác thì hđi lễ. Cách chữa bệnh ở chùa Keo “cũng là nghthuật của c cụ.Ông Hùng có ông blà pháp sư tại chùa Keo kể: “Bi viết o sớ mực o ra mực đó, tức là chđen, chđỏ. Riêng cách chữa bệnh i a i vm linh, yểm, đảo, mmgia trạch khác là viết bằng mực u với son. n riêng a chữa bệnh, i thấy ông i làm thế y, ông phải đi mua những vthuốc bắc ghi ra giấy. i thấy là c giấy bản cviết ra sớ. Sau khi cthỉnh ông Thánh xong, là phù a và dặn vnhà đốt ra thành tro đnước trong, lắng xuống rồi mới gạn nước trong ra đuống. Sau y lớn lên i mới thấy mình uống là uống thuốc. Tức là mua c vthuốc bắc sau đó pha chế ra i nghiên thành mực rồi mới viếtn giấy bản”(12).

 

Chia skinh nghiệm và chứng kiến các nghi lchữa bệnh tại chùa Keo ở Hành Thiện, thầy pháp sư Thành klà hn m bùa, chữa bệnh âm, bệnh m thần, điên do bhành, n nếu là do gen di truyền thì không m lchữa bệnh. Theo thầy Thành, “bệnh điên tình do người âm theo thì cũng khó chữa, vì âm hành, do hợp bóng vía của những người âm n bhành. Một ví dlà cháu Anh ở Tam Điệp. Khi cháu 17-18 tuổi mắc bệnh điên tình, không biết ai mách mà tTam Điệp, cháu m vđây nhbi cứu chữa. Ông tiến hành c phương pháp như vậy, chữa cho cháu khỏi. Sau y lấy chồng, có con githành bà rồi, m o cũng vchùa ltạ”(13). Những câu chuyện chữa bệnh âm được lan truyền khá phổ biến ở c ngôi chùa Mật Tông ở đồng bằng châu thBắc Bvà được lý giải tc đnhân học, như trong c công trình của c giNguyễn Thị Hiền (2015).

chùa Keo, Nam Định, trong truyền thống làng Hành Thiện, có nhiều pháp sư m bùa, yểm bùa chữa nhiều c loại bệnh theo kiểu ma thuật vì c pháp sư trtrì trong chùa theo phái Thái thượng o quân. Vì vậy, ngoài hành lnhà Phật các thầy n thỉnh pháp lục, phù a đtr, trị bệnh và hành nghphù thủy. Theo thầy Thành, “chchúng i mới có c đạo a đchữa bệnh”. Theo ông, trường phái của Thái thượng o quân còn kết hợp với việc tra theo pháp tr, ma thuật của thánh Trần Hưng Đạo. Không phải tất cả các khoa cúng đều là kinh đức thánh, mà do tính chất của từng việc, lời khấn u cho từng người và c công việc cthdo trình đcủa từng thầy. Quan trọng, trong m thức n gian ở chùa Keo, Nam Định là đây đức thánh có biệt i vcứu người, tr bệnh”(14).

Đối với đức thánh Nguyễn Minh Không

(thánh Nguyễn), theo tục truyền Ngài chữa bệnh hóa hcho vua, siêu phàm vchữa bệnh, n tại nơi sinh của Ngài ở Ninh Bình có sđảo bệnh, cải thoàn sinh. Bà Ngà kể: “Tkhi n chùa cùng chồng m trtrì đền thánh Nguyễn đã được ba năm, bà chứng kiến, nhiều trường họp m rất nặng, có người thô-xi nhưng gia đình vđây lễ kêu Ngài ba ngày, cầu đảo bệnh đgặp thầy gặp thuốc. Sau đó, người ta sống được thêm được 1-2 năm nữa. Cũng tại đây, nhiều người đến u cầu

vì bệnh âm, đi bệnh viện khám không ra bệnh, khi vnhà lại đbệnh”. Theo bà Ngà, một là do căn qucủa mình, hai là do bngười âm hành, và bà cũng chính là người chữa những bệnh vđường âm. Bà ku chuyện vđứa cháu 23 tuổi, chưa có chồng, mà bngười âm theo, suốt ngày hành về ban trưa. Khi đến gặp , bà lcho 3 ngày, sau đó vnhà ltiếp. Bà u cho khỏi bệnh, “vì cửa của Ngài đây tối linh che chcho(15).

Việc xin chữa bệnh, đbệnh liên quan đến những mảnh vtrong tiểu slinh thiêng vviệc chữa bệnh cho vua và vviệc c vthánh là thần y biết nghthuốc. i viết không đi u o việc phân tích tính hiệu nghiệm của c nghi lma thuật, mà muốn nhấn mạnh trong m thức của người n Việt, đến c chùa, đền thphụng ba vthánh là đthỉnh cầu và m lchữa bệnh về mặt m linh, như trong n gian có u “có bệnh thì i tphương”. Trong việc cầu cúng chữa bệnh, cũng như việc cầu tự, có người cầu được ước thấy, có người cầu chđgiải tỏa m lý. Trong i viết, c gimuốn nhấn mạnh những biểu hiện điển hình của việc cầu thỉnh đến ba vị thánh, và những biểu hiện y cũng phản ánh tâm thức n gian của người n Việt thcúng thánh thần i chung.

4. Ba v thánh là t nghề

Theo sliệu, c thánh đều là c vthánh tcủa nhiều nghề: nghđúc, nghrối, nghhoa cây cảnh, nghchài lưới, đánh , nghthuốc…, Trong i viết y, c giphân tích hai nghtiêu biểu là ngh rối và ngh đúc.

4.1.Ông t ngh rối

TĐạo Hạnh được suy n là ông tnghề rối. Qua thư tịch, truyện kn gian, trong tâm thức n gian, thánh TĐạo Hạnh là tnghề múa rối cạn và rối nước. Lhội chùa Thầy vào ngày mồng 7 tháng ba âm lịch tchức a rối nước tại thủy đình trước chùa. Đây là một thủy đình ckính. Tương truyền, rối nước là do Từ Đạo Hạnh truyền dạy, nhưng không phải người dân ở thôn Thụy Khuê, xãi Sơn,n y, nơi có chùa Thầy biểu diễn rối nước, mà là n làng Ra (nay là Phú Hòa, Thạch Thất, Hà Nội) cđến hội là diễn rối tại thủy đình với mục đích mua vui là chính. Stích krằng TĐạo Hạnh trên đường đi giảng đạo qua làng Ra, thấy cảnh trí vui

 

tươi, người n cởi mở, n ngài đã đem nghề rối truyền dạy cho n trong làng. Trong c tiết mục rối nước, tiết mục ‘Rước kiệu rời tượng’ mang tính thiêng i hiện cảnh rước tượng Từ Đạo Hạnh đtlòng biết ơn đối với Thánh tổ sáng tạo và truyền dạy nghrối nước (Đặng Thị Phong Lan 2010).

Từ  Đạo  Hạnh  n  là  vị  Thánh  tổ  của rối hầu i Lỗi, n gọi là t và a rối hầu thánh ở chùa Đại Bi, thtrấn Nam Giang (Nam Trực, Nam Định). Đây là loại hình rối cạn độc đáo vùng châu thsông Hồng, chđược diễn vào đêm giao thừa và trong dịp lhội tại chùa Đại Bi vào đêm 20, 21, 22  tháng giêng hằng năm. Theo huyền tích, một lần thánh TĐạo Hạnh đang đi thuyền dạo trên sông thì thấy một i bọc nổi lềnh bềnh, ông vớt n xem thì thấy trong đó có u đứa trquái thai. Động lòng trắc n và ttâm, thánh đã đem u đứa trvchùa nuôi nấng và dạy dỗ. Đtưởng nhcông lao của thánh, nhân n đã sáng tạo ra u đầu rối, mang khuôn mặt của sáu người trưởng thành, khôn lớn, và rước c tích trò ca ngợi công đức của đức thánh Từ(16).

Đây là rối hầu thánh n trong m thức

người n ở đây, c con rối và c buổi diễn rất thiêng. c con rối được thttrong khám thờ, phía sau ban thThánh ở tam bảo. Trong m thức nhân dân, những đầu rối là “thánh tượng”, không được gọi là “con rối’. Trước khi tchức t rối, người ta phải m thtục tế lxin phép rước và đưa thánh tượng ti thtra i biểu diễn. Nghi lxin phép thánh được chia m bốn phần: lthánh, lrước thánh tượng, ltắm tượng và lễ dâng tượng. Chcó những người có vai vế trong phường t rối mới được phép rước thánh tượng. Kinh n (ca từ) biểu diễn khi t rối i Lỗi chủ yếu mang nội dung i vcông lao của Đức Thánh Từ, ca ngợi đất nước thái bình thịnh trị, vua sáng tôi hiền. Khi diễn, c nghnhân rối đứng sau tấm màn, biểu diễn sao cho đầu rối hướng vphía bàn thPhật và thánh TĐạo Hạnh với ý nghĩa rối hầu dâng thánh.

Việc tham gia rối hầu i Lỗi cũng phản ánh m thức của người n vviệc phụng sự thánh. Mọi người tnguyện đăng ký tham gia vào phường rối, thì những người có trách nhiệm nhất, như c ông trùm của ba thôn, thuộc vthôn

o thì trùm của thôn y phải chịu trách nhiệm vtập luyện và đào tạo những người mới. Đặc biệt, những người đã o phường rối thì phục v cho đến khi chết. m niệm của những người tham ra phường rối là đhầu hPhật Thánh, và làm i phúc cho con cho cháu. Hồng phúc của mỗi người khác nhau, như anh Bằng, một thành viên tham gia a rối, đã cầu tđược như ý có con trai sau ba lần sinh htoàn con gái. Việc cầu tcủa anh Bằng đã được i viết trình y ở phần trên.

4.2. Ông tnghđúc

Thánh Nguyễn Minh Không được thờ phụng như một ông tnghđúc i chung. Một sđịa phương có nghđúc đồng u đời như các làng nghn , Tống Xá ở Ý Yên, tỉnh Nam Định; phnghNgũ , phLò Đúc ở Tp. Hà Nội; làng Chè, làng R(Thiệu Hóa, Thanh Hóa), các làng nghđồng Châu Mỹ, Long Thượng, Đông Mai ở Hưng n và Đào Viên, Điện Tiền ở Bắc Ninh đều thvà n vinh Ngài là ông tđúc đồng. Ở một sđịa phương, ththánh Nguyễn Minh Không là ông tđúc đồng trong sđồng nhất với Dương Không Lộ. Làng nghđúc đồng ở Đông Sơn, tỉnh Thanh a và đền thsư tnghề đồng ở số 5 phChâu Long ở Hà Nội thì tsư nghđúc đồng là Khổng Minh Không. n gian đã a nhập Dương Không Lvà Nguyễn Minh Không m một, thành Khổng Minh Không(17). Vsphụng thNguyễn Minh Không, hiện nay có tới 100 ngôi đền thờ, trong đó có những nơi thlớn như chùa PhLại, Hải Dương, s50 Lý Quốc Sư Hà Nội, chùa i Đính cổ, v.vvà ở nhiều tỉnh thành vùng châu thsông Hồng. Bài viết chọn một điểm tương đối điển hình vviệc thphụng đức Thánh tNguyễn Minh Không ở làng nghTống , xã n , huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Tống , hiện nay có 138 xưởng đúc đã đăng ký kinh doanh. Hđúc c linh kiện cho c hthống nhà y, c khu công nghiệp, chkhông m mới cby. Thánh tdạy nghđúc đồng, đúc gang, n sau y do kinh tế phát triển và nhu cầu của thời đại, n làng mới có nghđúc thép. Theo ông Khang, một trong những người thuộc Ban Quản lý đền, ban đầu Thánh tchdạy đúc lưỡi y, nông cụ, thể

 

hiện trong scúng tcó dòng ch“giáo n chế tác điền khí(nghĩa là dạy n đúc công clàm ăn nông nghiệp). Như vậy, đầu tiên là m hàng nông nghiệp sau dần mới chuyển sang m hàng công nghiệp. y giờ, c xưởng trong làng chủ yếu phục vhàng công nghiệp cho c nhà máy trong cnước. Làng nghcũng sản xuất được nhiều mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu, khẳng định khnăng và thương hiệu của làng nghề. Ví dụ, doanh nghiệp của Công ty Ngọc Hà do ông Dinh sáng lập chyếu sản xuất c mặt hàng thép, phục vcho ngành công nghiệp, hợp đồng chyếu cho ngành than, khai thác đá, ngành xi măng, ngành nhiệt điện, đóng tàu.

Do kinh nghiệm cha truyền con nối hàng trăm năm, kinh nghiệm m việc là yếu tquan trọng đcho làng nghphát triển. Hcó thlàm theo c mô hình sản phẩm hay theo bản vthiết kế sản phẩm. n nữa, hchyếu m theo đơn đặt hàng chkhông sản xuất hàng loạt. Nhiều mặt hàng trước đây nhập khẩu tLiên , Trung Quốc như y nghiền đá, thì giđây Tống Xá có thsản xuất được, vừa rẻ, vừa tiết kiệm, vừa tận dụng được nhân công, nhanh n nhiều, chất lượng tương đương hàng nhập khẩu.

Được thánh dạy nghvà đúc kết kinh nghiệm qua nhiều đời, n n làng chcần nhìn nước đồng c o đđược là đổ, nhìn bằng mắt không cần y đo. Điều y thực tế là kinh nghiệm, là bí quyết và được lĩnh hội khi thành thạo nghề. Tuy nhiên, người n làng nghvẫn luôn nhcậy o vthánh tổ.

Trong m thức của người n ở Tống Xá, thánh Nguyễn Minh Không rất thiêng và được gọi thân thuộc là “Cụ”. Hm niệm rằng do có sphù hcủa Cmà hm ăn phát đạt như ngày nay với sphát triển của 138 công ty tư nhân và doanh thu n đến hàng chục, hàng trăm tm mỗi năm. Trong suy nghĩ của anh Dinh: “Chúng i n kính Ctrong công việc m ăn, kctrong việc đi lễ ở đền o ngày mồng 1 đầu tháng, hay trong nhà thắp hương cúng tổ tiên. c o cũng xin CđCphù hcho công việc suôn sẻ, m ăn được an toàn, cho sản phẩm được tốt. Không những vậy, người dân làng nghchưa được học qua bất ktrường lớp nào, nhưng với m thức là Ctruyền nghcho,

và do vậy có một i gì y rất linh thiêng. Dù chúng i không được học, nhưng Cluôn gieo vào đầu chúng i những sáng kiến độc đáo, làm cho mình nhận biết rất nhanh nhạy”(18).

Hcó một niềm tin cao cđối với Cụ. Hluôn m niệm vmột vthánh đã htrhọ trong nghvà hcó thcầu xin bất kc nào đCphù hcho m ăn, công việc thuận lợi. Ông Dinh, một doanh nhân thành đạt tại Ý Yên nói: “Khi có đức tin mình cầu rồi thì đi m rất thuận lợi, suôn sẻ, không chra đền cầu nguyện, mà ngay cả ở nhà mình cũng cầu đến Cvà quan trọng trong m thức của mình c o cũng tâm niệm vmột vthánh bảo trnhư thế”(19).

Cđược thphụng như là một vthánh, vì vậy, theo ông Dinh, “trong tiềm thức của người dân làng đã đặt niềm tin o đức thánh, bất kể làm việc , đúc một mthép nào, hay có một hợp đồng o thì trong m linh đều nghĩ đến cúng, lCụ. Chẳng hạn như m nay có một cái hợp đồng, hay đúc một i sản phẩm khó hoặc được một hợp đồng mới thì người ta nghĩ ngay là phải sắm một i lra đền xin Cụ. Mặc dù biết là mình pha chế được sản phẩm nhưng vẫn phải sắm lu Cụ”(20).

Không những vậy, những người hợp tác làm ăn, ký kết hợp đồng với c doanh nhân ở làng nghề, như c đối c công ty của ông Dinh thì mỗi khi đến n công việc, hay ngày lhội, hcũng đều đến đền đức Thánh lcầu xin tài lộc, m ăn sức khỏe, hợp c thuận lợi. Vì vậy, o dịp lhội, có rất nhiều đại diện c doanh nghiệp, đối c ở những i khác đến dhội, đi lđền. c chdoanh nghiệp thì m lvà làm cmời c đối c ăn tại nhà.

Nhcó Cmà mọi công việc trong làng được suôn sẻ, c vấn đđạo đức được chú trọng, không có người nghiện ngập, việc ứng xgiữa người với người rất tốt đẹp. i vđạo đức, nghnghiệp Ctruyền cho thì con cháu phải biết trân trọng, tương trgiúp đnhau, không được tranh giành nhau, không được giấu nghề. Ví dụ, sản phẩm y mình m thành công, xưởng khác chưa m được, người ta đến hỏi mình, thì mình phải đến tận i chcho người ta. Đơn vkhác khó khăn vvật tư chẳng hạn, người ta chưa kịp mua thì có thđến đây vay

 

mượn mình. n nữa, ở Tống , c doanh nghiệp chcạnh tranh vkthuật, chkhông cạnh tranh vkhách hàng.

Điều y cho thấy công việc kinh doanh, làm ăn tại Tống Xá có phần khác với i khác bởi i tâm, i đức và n chcủa làng nghề. Kinh tế thtrường, m ăn chụp giật, manh mún, tranh giành thtrường, v.v... phần o được hạn chế bởi phong tục, truyền thống đạo đức làm nghcủa cha ông đlại. Những vấn đđạo đức này, theo triết lý của làng nghề, cũng như là về mặt m linh đã giúp cho làng nghTống Xá phát triển mạnh mvới doanh thu hàng năm tăng dần t10-15% và thu nhập của c xưởng đúc có kinh nghiệm u đời, có nhiều mối khách hàng n tới hàng chục, hàng trăm tđồng.

Như vậy, trong tiềm thức của c doanh nghiệp ở Tống , thánh Nguyễn Minh Không là tnghề. Do vậy khi đi ký hợp đồng với đối tác, hđều ra đền cầu xin được thuận lợi. Khi ký kết xong hlại vđền tlễ. Lvật tCchlà lchay đặt n ban thờ. Hcũng m lđối với những sản phẩm khó, mới bắt đầu nghiên cứu hoặc thnghiệm. Trước khi nổi lửa nấu , họ đều m lxin Ctphù hộ.

Trong m thức của những người làm nghđúc, thánh Nguyễn Minh Không có một vai trò quan trọng, là ctdạy nghề, là người trợ  giútronmọcônviệliêquanHọ được Thánh phù trợ, n đầu óc nhanh nhạy, sáng tạo. Qua kinh nghiệm, hcó thđọc được bản vsản phẩm mà nhiều chuyên gia cũng phải kính nể. Không được học, hvẫn có thể nhìn những sản phẩm mới mà làm, pha chế hợp kim, đúc. Hchcần nhìn c mđồng, mthép là biết khi o đđược và pha chế tlnhư thế nào đcó sản phẩm tốt. Đó là bí quyết, là kinh nghiệm, mà trong m thức của hlà hđược thánh chdẫn.

Tạm kết

Việc thcúng ba vthánh TĐạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Minh Không ở các chùa tiền Phật hậu Thánh có khá nhiều điểm tương đồng với m thức n gian của người Việt châu thBắc Bộ, nhưng cũng có nhiều điểm riêng. Những khác biệt đó là do sc động của văn a làng, n a vùng, và một phần cũng do squản , phtrách cúng tế tại chùa là do sư, đại đức hay là pháp . Một schùa thì nặng vPhật, một schùa thì nặng vThánh, nhưng tựu trung, người n đến lchùa tiền Phật hậu Thánh thì vẫn hướng đến Thánh là chính. Mặt khác, m thức thphụng ba vThánh phần nào vẫn theo truyền thống phản ánh m thức thờ phúc thần mà người n có thcầu cúng bất kể nguyện vọng nào.

m thức n gian thhiện qua nhiều hình thức, hành vi n giáo khác nhau. Vcơ bản, ba vThánh là phúc thần mà con người có thcầu, xin mọi điều cho cuộc sống, tm ăn, buôn bán, đến n nhà, dựng vgchồng, tviệc cá nhân, gia đình đến việc của tập thể, cơ quan, làng xã… Đấy chính là t điển hình trong m thức của người Việt.

 

Chú thích

(1) Trong bài viết này, để đảm bảo thông tin riêng của những thông tín viên, tác giả đã thay đổi tên của họ.

(2) Nói chuyện với bà Ngà ở đền Thánh Nguyễn, xã Gia Thắng, Gia Viễn tỉnh Ninh Bình, ngày 21 tháng

01 năm 2018.

(3) Phỏng vấn ông Quang, một người dân ở thôn Thụy Khê, xã Sài Sơn, huyện Thạch Thất, Sơn Tây, tháng 02 năm 2018.

(4) Phỏng vấn anh Bằng thị trấn Nam Giang, tỉnh Nam Định, 20 tháng 02 năm 2018.

(5) Phỏng vấn bà Ngà ở đền Nguyễn xã Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, ngày 21 tháng 01 năm 2018.

(6) Nói chuyện với ông Dinh, một doanh nhân ở Tống Xá, Ý Yên, Nam Định ngày 21 tháng 01 năm 2018

(7) Phỏng vấn anh Bằng, thị trấn Nam Giang, tỉnh Nam Định, ngày 20 tháng 02 năm 2017.

(8) Nói chuyên riêng với vợ chồng ông Trọng,  làng Hành Thiện, ngày 13 tháng 02 năm 2018.

(9) Phỏng vấn bác Hùng, một thầy cúng ở chùa Keo Nam Định, ngày  13 tháng 2 năm 2018.

(10) Phỏng vấn bác Hùng, chùa Keo Nam Định, ngày 13 tháng 2 năm 2018.

(11) Tài liệu về 42 quẻ sưu tầm tại chùa Keo ở làng Hành Thiện, tỉnh Nam Định.

(12) Phỏng vấn ông Hùng, chùa Keo, Nam Định, ngày 13 tháng 2 năm 2018.

(13) Phỏng vấn pháp sư Thành ở chùa Keo, Nam Định, ngày 13 tháng 02 năm 2018.

(14) Phỏng vấn pháp sư Thành tại chùa Keo, Nam Định, ngày 13 tháng 02 năm 2018

(15) Nói chuyện với bà Ngà tại đền Thánh Nguyễn, Gia Viễn, Ninh Bình, ngày 21 tháng 01 năm 2018.

 

(16) Theo lời kể của ông Danh, thị trấn Nam Giang, tỉnh Nam Định, ngày 13 tháng 02 năm 2018.

(17) http://www.wikiwand.com/vi/L%C3%BD_ Qu%E1%BB%91c_S%C6%B0. Truy cập ngày 15 tháng 02 năm 2018.

(18) Phỏng vấn doanh nhân Dinh tại Tống Xá, Ý Yên, tỉnh Nam Định, ngày 21 tháng 1 năm 2018.

(19) Phỏng vấn doanh nhân Dinh tại Tống Xá, Ý Yên, tỉnh Nam Định, ngày 21 tháng 1 năm 2018.

(20) Phỏng vấn doanh nhân Dinh ở làng Tống Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, ngày 21 tháng 1 năm

2018.

 

Tài liệu tham khảo

1. Nguyn ThHiền (2015), “Câu chuyn Cô Đa Đai: thực hành tôn giáo tại một ngôi chùa Mật tông ở Hà Nội”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, s04 (142).

2. Phạm ThThu Hương (2017), Những ngôi chùa “tiền phật hậu thánh” ở vùng châu thBắc Bộ, Nxb. Lao động.

3. Keyes, Charles (2006), “Ma lực: T đời sống xã hội đến tiểu s linh thiêngtrong Những vn đnhân học tôn giáo, Hội Khoa học lịch svà Nxb. Đà Nẵng xb.

4. Đặng ThPhong Lan (2010), Nghthuật kiến trúc và điêu khắc chùa Thy, Luận án Tiến sĩ Văn a học, Học viện  KHXH, Hà Nội.

5. Nguyn Văn Quý (2012), “Đặc trưng Phật giáo xĐoài thời Lý (nghiên cứu trường hợp chùa Thy)trong Kyếu Hội thảo “Chùa Thy và chư thánh tsư”, Nxb. Văn hóa

- Thông  tin.

6. Chu Quang Tr(2001), “Chùa “tiền Phật hậu Thánh”- một biểu hiện của kiến trúc Phật giáo Việt Nam, Sáng giá chùa a - Mthuật Phật giáo, Nxb. Mthuật, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2 (182), 2019, tr.8-15

 

Post by: admin
02-11-2021