Truyền thuyết về việc Rồng sinh con có từ lâu, được nhắc tới trong văn hiến từ Tiên Tần Lưỡng Hán trong Chiến quốc sách (戰國策) hay Sử kí (史記)…
Nhưng phải tới đời Minh mới có những ghi chép đáng chú ý, như cuốn Hoài lộc đường tập (懷麓堂集) của Lý Đông Dương, Thục viên tạp kí (菽園雜記) của Lục Dung, Thăng am tập (升庵集) của Dương Thận, Giới am lão nhân mạn bút (戒庵老人漫筆) của Lý Hủ, Ngọc chi đường đàm vân (玉芝堂談蕓) của Từ Ứng Thu.
Rồng theo quan niệm phương Đông là con vật linh (một trong Tứ linh), nên những đứa con của nó cũng mang linh khí ấy, đem lại những điều may mắn, tốt lành ở những nơi nó xuất hiện. Tùy vào tính cách của mỗi con mà người ta dùng hình ảnh của chúng trang trí ở những nơi khác nhau như cánh cửa, đồ dùng, vũ khí, nhạc cụ....
Các ghi chép về những đứa con của rồng rất phong phú, nội dung cũng có những chỗ xuất nhập, nhưng căn bản có thể khái quát rằng: Rồng sinh được chín con mà không con nào là Rồng. Có hai thuyết chính về những đứa con của Rồng, với thứ tự các con khác nhau. Thuyết thứ nhất (theo Hoài lộc đường tập của Lý Đông Dương), thứ tự chín con của Rồng là: con trưởng là Tù ngưu, kế đến là Nhai tệ, Trào phong, Bồ lao, Toan nghê, Bá hạ, Bệ ngạn, Phụ hí, và con thứ chín là Si vẫn. Thuyết khác lại cho rằng thứ tự chín con của Rồng là: con trưởng là Bá hạ, kế đến là Si vẫn, Bồ lao, Bệ ngạn, Thao thiết, Công phúc, Nhai tệ, Toan nghê, và con thứ chín là Tiêu đồ. Ngoài ra, có thuyết còn nhắc đến Si, Kì lân, Tì hưu, Hống cũng là con của rồng.
Như vậy, truyền thuyết cho rằng Rồng có chín con, nhưng do sự xuất nhập ấy mà số loài được coi là con của rồng lên tới mười sáu.
1. Tù ngưu (囚牛)
Loài Tù ngưu có hình dạng như một con rồng nhỏ, màu vàng, có sừng như sừng lân. Nó vốn ham mê âm nhạc, nên hay ngự trên đầu dóng đàn để thưởng thức âm nhạc. Vì thế người xưa hay dùng hình tượng tù ngưu để trang trí cho cây đàn. Sách Kí long sinh cửu tử của Lí Trần Dương đời Minh có ghi: “Tù ngưu, long chủng, bình sinh hiếu âm nhạc, kim hồ cầm đầu thượng khắc thú thị kì di tượng.” (Tù ngưu là giống rồng, bình sinh thích âm nhạc, nay hình khắc loài thú trên đầu hồ cầm là hình ảnh của nó).
2. Nhai tệ (睚眥)
Sách Thăng am ngoại tập ghi: “Long sinh cửu tử bất thành long, thất viết nhai tệ, tính hiếu sát, cố lập ư đao hoàn.” (Rồng sinh được chín con, chẳng con nào là rồng, con thứ bảy là nhai tệ, tính thích giết chóc, nên đứng ở cườm đao). Về Nhai Tệ, sách này cũng miêu tả: nó trông như con chó sói có sừng rồng, hai sừng mọc dài dọc về phía lưng, ánh mắt dữ dằn, thích đánh nhau giết chóc. Vì thế, người ta hay tạc khắc hình nó ở các binh khí như cán đao, cườm kiếm, đầu búa, đầu côn… vừa để trang trí, làm đẹp mắt và có ý nghĩa trang trọng; vừa biểu thị ý nghĩa hiếu chiến, hiếu sát của loài này, hàm ý tăng tính uy hiếp sát thương của binh khí.
3. Trào phong (嘲風)
Trào phong có hình dạng như loài thú. Sách Thăng am ngoại tập ghi: “Trào phong, binh sinh hiếu hiểm, kim điện giác tẩu thú thị kì di tượng” (Trào phong là loài bình sinh thích sự nguy hiểm, nay loài thú chạy ở góc mái cung điện là hình ảnh của nó). Nó không chỉ thích sự nguy hiểm mà còn thích nhìn ra xa, nên thường chọn chỗ cao, cheo leo như đầu cột, góc mái của ngôi nhà, điểm cao một số công trình kiến trúc… làm chỗ leo trèo hoặc đứng nhìn. Vì thế, nó thường được chạm khắc ở những vị trí ấy với ngụ ý chống hoả hoạn và răn đuổi yêu ma.
Ngoài ra, hình tượng Trào phong trên góc mái còn tượng trưng cho điều tốt lành, may mắn, tạo giá trị trang trí đẹp mắt và uy nghi. Trên nóc nhà hoặc cung điện, lăng tẩm… Trào phong đứng đầu trong mười loài (theo thứ tự là Rồng (tức Trào phong), Phượng, Sư tử, Thiên mã, Hải mã, Toan nghê, Háp ngư, Giải trãi, Đấu ngưu và Hành thập). Tuy nhiên, ngoại trừ điện Thái hòa trong Tử cấm thành ơ Trung Quốc có đủ mười loài trên góc mái, các công trình kiến trúc khác tùy theo địa vị mà cao thấp mà có số con vật trên góc mái nhiều ít khác nhau.
4. Bồ lao (蒲牢)
Nó có hình dạng như con rồng đang cong mình. Nó vốn sống ở ven biển, là con của rồng mà lại rất sợ cá kình (cá voi), nên mỗi khi bị cá kình tấn công thì lại bỏ chạy kêu thét. Người ta thấy vậy cho là nó thích kêu thét, thích những âm thanh lớn. Vì thế, nó thường được đúc trên quai chuông hàm ý tiếng chuông sẽ được lớn và vang xa như khi loài Bồ lao kêu thét bỏ chạy vì sợ cá kình.
5. Toan nghê (狻猊)
Nó còn có tên gọi khác là Kim nghê, Linh nghê. Hình dạng nó như con sư tử, đầu rồng, có sách lại cho rằng nó là loài ngựa hoang. Nó thích ngồi yên, lại thích khói lửa nên được đúc làm vật trang trí trên nắp lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn lò hương luôn được đốt và hương trầm luôn tỏa ngát. Sách Mục thiên tử truyện ghi: “Toan nghê dã mã, tẩu ngũ bách lí” (Toan nghê là loài ngựa hoang, chạy được năm trăm dặm). Sách Thục viên tạp kí của Lục Dung ghi rằng: “Kim nghê, kì hình tự sư, tính hiếu hỏa yên, cố lập vu hương lô cái thượng.” (Kim nghê có hình thù tựa như sư tử, tính thích lửa khói, nên thường đứng ở trên nắp lư hương).
6. Bá hạ (霸下)
Nó còn được gọi là Bật hí, Thạch long quy, hình dáng như con rùa, đầu rồng, có sức mạnh kinh hồn, thích cõng vật nặng trên lưng, có thể cõng cả trái núi một cách nhẹ nhàng. Truyền thuyết kể rằng, thuở xa xưa, Bá hạ thường cõng Tam sơn Ngũ nhạc trên lưng, rồi nổi gió tạo sóng lớn. Hạ Vũ (vị vua đầu của nhà Hạ, Trung Quốc) liền hàng phục nó, dùng nó phụ giúp cho việc trị thủy của mình. Việc trị thủy xong, sợ nó lại đi lung tung gây họa, Hạ Vũ bèn làm một cái bia cực lớn ghi công trạng của nó, cho nó cõng. Tấm bia quá nặng khiến nó không đi đâu được nữa. Về sau, người ta thường dùng nó làm vật trang trí chân cột, chân bia đá biểu thị ý nghĩa muốn cột và bia ấy luôn vững chắc, đồng thời cũng tượng trưng cho sự trường thọ, cát tường.
7. Bệ ngạn (狴犴)
Còn có tên gọi khác là Bệ lao, Hiến chương. Sách Tiềm xác loại thư có miêu tả: “Bệ ngạn hiếu tụng, hình ngục môn thượng” (Bệ ngạn thích tranh tụng, lưu hình ở trên cửa ngục). Nó có hình dáng giống hổ, răng nanh dài và sắc, trượng nghĩa, thích lý lẽ, có tài cãi lý đòi sự công bằng, lại rất có uy. Do đó nó thường được trang trí trên cửa nhà ngục, nha môn, pháp đường, ngụ ý răn đe người phạm tội. Đôi mắt hổ của nó oai nghiêm quan sát để duy trì trật tự kỉ cương của chốn công đường.
8. Phụ hí (負屃)
Nó có hình dáng như rồng, dáng vẻ thanh nhã, thường nằm cuộn mình trên bia đá. Tương truyền, nó rất thích vẻ đẹp của chữ khắc trên các văn bia, nên thường cuộn mình trên đó mà ngắm nghía. Vì vậy, khi trang trí bia đá, người ta thường khắc một đôi Phụ hí cân đối phía trên trán bia.
9. Si vẫn (螭吻)
Nó còn được gọi là Si vĩ, mình cá đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn. Nó vốn là con vật huyền thoại Makara trong văn hóa Ấn Độ chuyên sống ở dưới nước, có hình đầu thú (đầu voi hoặc đầu cá sấu…), phần sau là đuôi cá. Makara là vật cưỡi của Ganga - chúa tể sông Hằng và Varuna - chúa tể biển cả. Sau, Hán Vũ đế là người đưa linh vật của Ấn Độ này vào văn hóa cung đình bằng việc đắp hình trên các nóc điện, coi đó như vị thần trừ hỏa hoạn, và gọi nó là Si vẫn. Sách Thái bình ngự lãm của Lí Phường đời Bắc Tống có kể lại câu chuyện: “Vào đời Hán, sau khi điện Bách Lương bị hỏa hoạn, có người thầy cúng đất Việt nói rằng: Ngoài biển có con Ngư cù (rồng cá), đuôi giống đuôi con si (cú), đập sóng mà làm mưa. Vua bèn tạc tượng con thú ấy để yểm hỏa tai.” Loài này có miệng to, thích nuốt, nên người ta hay đắp hình hai con Si vẫn há to miệng nuốt hai đầu sống nóc mái nhà, vừa có giá trị trang trí, vừa hàm ý nó có thể tạo mưa, tránh hỏa hoạn cho công trình kiến trúc.
10. Thao Thiết (饕餮)
Nó còn được gọi là Bào hào. Sách Thần dị kinh kể về loài này rất đáng sợ: “Tây nam phương hữu nhân yên, thân đa mao, đầu thượng đái thỉ, tham như ngận ác, tích tài nhi bất dụng, thiện đoạt nhân cốc vật” (Ở phía tây nam có giống người thân mình nhiều lông, trện đầu đội con lợn, tham lam độc ác, tích lũy của cải mà không dùng, giỏi cướp thóc lúa của người). Sách Sơn hải kinh cũng có miêu tả về loài thú này như sau: “Câu Ngô chi sơn kì thượng đa ngọc, kì hạ đa đồng, hữu thú yên, kì trạng như dương thân nhân diện, kì mục tại dịch hạ, hổ xỉ nhân trảo, kì âm như anh nhi, danh viết Bào hào, thị thực nhân.” (Ở núi Câu Ngô, trên núi có nhiều ngọc, dưới núi có nhiều đồng, có loài thú ở đó, hình dạng của nó là mình dê mặt người, mắt ở dưới nách, răng như hổ, móng tay chân như người, tiếng của nó như tiếng trẻ con, tên là Bào hào, là giống ăn thịt người). Nó có tính tham ăn vô độ, sau chết vì tính tham ăn ấy. Bản tính độc ác và tham ăn khiến người ta hay dùng hình ảnh của nó trang trí để răn về những điều tham lam độc ác, trong đó có việc trang trí trên các bát ăn, cốc uống nhằm nhắc nhở việc ăn uống nên có tiết độ.
11. Công phúc (蚣蝮)
Nó là tổ tiên của con Tị thủy thú. Giống này có đầu rồng, trên thân mình, bốn chân và đuôi đều có vảy rồng, miệng rộng. Truyền thuyết kể rằng, nó phạm phải quy định trên trời nên bị đày nhốt vào cái mai rùa cực nặng để trông giữ việc vận chuyển đi lại đường sông trong một ngàn năm mới được thả ra. Mọi người ghi nhớ công ơn của nó về việc coi sóc sông ngòi bèn tạc hình của nó ở các công trình hay phương tiện giao thông đường thủy như trên thành cầu, đầu cầu, bến tàu, thuyền bè, ngòi rãnh dẫn nước, đập nước … với mong muốn Công phúc tiếp tục cai quản, điều hòa nước, ngăn ngừa lũ lụt. Vì thế, ngoài ý nghĩa trang trí, nó còn hàm ý về sự bình yên.
12. Tiêu đồ (椒圖)
Nó thích sự kín đáo, hình dạng như con ốc cuộn tròn lại, không thích có người khác xâm nhập lãnh địa của mình. Có lẽ Tiêu đồ là hình tượng xuất phát từ ý tưởng loài ốc mỗi khi thu mình vào vỏ thì lại đậy miếng nắp kín mít lại, không giao tiếp với bên ngoài nữa. Vì thế, người ta thường được khắc hình nó trên cánh cửa ra vào, hoặc trang trí tay nắm mở cửa, ngụ ý cửa phải kín đáo, răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập, giữ an toàn cho chủ nhà.
13. Si (螭)
Nó còn có tên là Si thủ, là giống rồng mà không có sừng. Sách Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đời Hán có viết: “Si, nhược long nhi hoàng, bắc phương vị chi Địa lâu” (Con Si như con Rồng mà màu vàng, phương bắc gọi nó là Địa lâu). Nó có miệng rộng, bụng có thể chứa nhiều nước, thường được trang trí ở những vị trí xả nước như cửa cống, đầu vòi nước… hàm ý xả nước ra.
14. Kì lân (麒麟)
Kì lân có đầu rồng, mình ngựa, thân phủ vảy cá, đuôi trâu, chia ra đực cái. Con đực gọi là Kì, con cái gọi là Lân. Nó cũng được gọi tắt là con Lân hoặc con Li trong Tứ linh của quan niệm dân gian (Long, Li, Quy, Phượng). Kì lân được người xưa coi là con thú báo điềm lành, sự thái bình, trường thọ nên được trang trí ở nhiều nơi ngụ ý cầu mong luôn có sự an lành, may mắn.
15. Tì hưu (貔貅)
Tì hưu cũng như Kì lân phân ra đực cái. Con đực là Tì, con cái là Hưu. Sách Thanh bại loại sao của Từ Kha đời Thanh miêu tả: “Tì hưu, hình tự hổ, hoặc viết tự hùng, mao sắc hôi bạch, Liêu Đông nhân vị chi bạch hùng. Hùng giả viết Tì, thư giả viết hưu” (Tì hưu có hình dáng như con hổ, có người bảo như con gấu, lông màu tro, người Liêu Đông gọi nó là gấu trắng. Con đực là Tì, con cái là Hưu). Tì hưu trong văn hóa Trung Hoa có hai loại. Loại thứ nhất có hai sừng, là loài mãnh thú, có tác dụng xua đuổi tà ma, từng nằm trong số sáu loài mãnh thú (Tì, Hưu, Hổ, Bưu, Bi, Hùng) theo Hoàng Đế đánh nhau trong cuộc chiên thần thoại với Xuy Vưu trên cánh đồng Trác Lộc. Loại thứ hai chỉ có một sừng, bẩm sinh không có hậu môn, lại thích ăn vàng bạc mà không tiêu hóa, giống như “thần giữ của”, “thần tài” nên được mọi người trang trí trong nhà biểu thị ý nghĩa cầu tài lộc.
16. Hống (犼)
Nó được gọi bằng nhiều tên khác như Vọng thiên hống, Triều thiên hống. Sách Thuật dị kí ghi rằng: “Hống, hình loại mã, trường nhất nhị trượng, hữu lân phiến, hồn thân hữu hỏa quang triền nhiễu, hội phi, thực long não, cực kì hung mãnh. Dữ long tương đấu thời, khẩu trung phún hỏa, long tức bất địch” (Con Hống có hình dáng như loài ngựa, có vảy, ánh lửa cuốn bọc khắp thân mình, biết bay, ăn não của rồng, cực kì mạnh tợn. Lúc đánh nhau với Rồng, miệng nó phun lửa, Rồng không thể địch lại được nó). Như vậy nó rất mạnh tợn, lấy Rồng làm đồ ăn cho nó. Loài này thích ngóng lên trời mà kêu hống, nên được trang trí biểu thị thay người dân bày tỏ lòng mình với trời.
***
Việt Nam và Trung Quốc trong quá trình giao lưu với nhau đã có nhiều thành tựu văn hóa được trao đổi. Sự hiện hữu các nhân vật như Phục Hi, Thần Nông với tư cách là những vị vua đầu tiên của Trung Quốc thể hiện ảnh hưởng của văn hóa phương nam đối với văn hóa Hán; hình tượng Si vẫn trên mái chùa Một Cột, Tiêu đồ trên cánh cửa một số gia đình quyền quý, Tì hưu trên đồ trang sức hoặc bày trong một số gia đình người Việt… đã minh chứng cho truyền thống giao lưu ấy. Học hỏi cùng với sự sáng tạo để làm giàu cho kho tàng văn hóa dân tộc luôn là một nội dung không thể thiếu, đem lại sự phong phú, đa dạng, để phục vụ cho đời sống con người ngày một tốt hơn.
Hà Nội, 30.11.2012
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Chiến quốc sách, Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu, NXB Từ điển Bách khoa, 2006
2. Sử kí, Tư Mã Thiên, Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Lá Bối, Saigon, 1970.
3. Thần thoại Trung Hoa, Dương Tuấn Anh, NXB Giáo dục, 2009.
4. Giới am lão nhân mạn bút (戒庵老人漫筆), Lý Hủ, Trung Hoa thư cục, 1982 (Tiếng Trung)
5. Hoài lộc đường tập (懷麓堂集), Lý Đông Dương, Đài Loan thư cục ấn thư quán, 1986 (Tiếng Trung)
6. Mục thiên tử truyện (穆天子传), Đông Phườn Sóc, Hoa Trương, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1990 (Tiếng Trung)
7. Thăng am tập (升庵集), Dương Thận, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1993 (Tiếng Trung)
8. Thục viên tạp kí (菽園雜記), Lục Dung, Thương vụ ấn thư quán, 1936 (Tiếng Trung)