Văn học dân gian

Tìm hiểu thêm về mối quan hệ giữa truyền thuyết và cổ tích


10-10-2020

1. Dẫn nhập

1.1. Trong một số công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian ở nước ta, đôi khi khái niệm truyện cổ, truyện dân gian, truyện cổ dân gian đã bị đồng nhất với khái niệm truyện cổ tích. Người ta định nghĩa truyện cổ tích là truyện cổ, truyện dân gian, truyện cổ dân gian[i]. Cách hiểu này không sai. Nhưng nó sẽ trở nên phức tạp nếu ai đó hiểu theo chiều ngược lại, tức cho rằng mọi câu chuyện đời xưa, mọi truyện cổ dân gian đều là cổ tích. Nếu vậy, truyền thuyết cũng là chuyện đời xưa, là truyện cổ dân gian, suy ra truyền thuyết cũng là cổ tích (?).

Một vấn đề khác, trong quá trình vận động nội tại theo trục thời gian, một bộ phận truyền thuyết dần lu mờ yếu tố lịch sử, bị chuyển hóa chức năng và thể loại, đã trở thành cổ tích. Thế nhưng, không ít người sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian vẫn “giam giữ” chúng trong kho truyền thuyết.

Những hiện tượng trên, tuy không phổ biến nhưng vẫn là khía cạnh phức tạp của vấn đề thể loại. Nó buộc người sưu tầm, nghiên cứu truyền thuyết phải xem xét kỹ hơn mối quan hệ cũng như sự khác biệt giữa hai thể loại này.

1.2. Theo lý thuyết folklore, truyền thuyết và cổ tích là hai thể loại khác biệt nhau rõ rệt. Giáo sư Đỗ Bình Trị khẳng định: “Truyện cổ tích và truyền thuyết lịch sử là hai thể loại có sự khác biệt lớn về chức năng và thi pháp”[ii]Từ điển văn học (bộ mới) cũng định nghĩa cụ thể từng khái niệm[iii]. Hầu hết giáo trình văn học dân gian đều có phần mục riêng về đặc điểm thi pháp của từng thể loại.

Tuy vậy, ngay trong lý thuyết, vẫn còn vài điểm chưa minh bạch về mối quan hệ và ranh giới giữa hai thể loại này. PGS. Chu Xuân Diên nhận định: “Ở Việt Nam, đã từng có xu hướng không phân biệt truyện cổ tích và truyền thuyết về phương diện thể loại: hoặc cho rằng hai loại truyện kể đó chỉ có sự khác biệt về trình độ phát triển, hoặc cho rằng không có thể loại truyền thuyết với tư cách là một thể loại văn xuôi dân gian, do đó trong phân loại cũng như trong nghiên cứu đã gộp chung cả hai nhóm truyện đó làm một”[iv].

1.3. Lý thuyết đã có vấn đề. Thực tế càng phức tạp hơn. Nhiều khi, việc xác định một truyện cổ dân gian nào đó là truyền thuyết hay cổ tích thật không đơn giản. Xin nêu vài dẫn chứng. Theo Đỗ Bình Trị, trong bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, toàn bộ các truyện thuộc mục II (Sự tích đất nước Việt) và mục V (Sự tích anh hùng nông dân) được soạn giả đưa vào thể loại cổ tích, nhưng thực ra, tất cả “đều là những truyền thuyết lịch sử”. Cho nên, Đỗ Bình Trị đòi hỏi “Phải trả những truyện này về cho thể loại của nó”[v]. Chu Xuân Diên cũng đồng quan điểm như vậy: “Nguyễn Đổng Chi tuy có phân biệt truyền thuyết với truyện cổ tích về mặt lý thuyết, song “khi sưu tập”, ông vẫn “xếp chung truyền thuyết với cổ tích và coi như là những truyện cổ tích”[vi]. Hay theo khảo sát của Nguyễn Xuân Đức, trường hợp truyện Sơn Tinh Thủy Tinh cũng nhiều bất ổn: sách Văn 10 (Nguyễn Đình Chú chủ biên) xếp nó vào thần thoại, sách Truyện đọc 2 (Trương Chính – Trịnh Mạnh biên soạn) cho là cổ tích, còn sách Ngữ văn 6 (Nguyễn Khắc Phi tổng chủ biên) thì gọi là truyền thuyết[vii]. Một trường hợp khác, truyện Bánh chưng bánh giầy là truyền thuyết hay cổ tích?[viii]. Thêm nữa, trường hợp truyện Chử Đồng Tử, do sự chuyển hóa về mặt thể loại mà đã có một Chử Đồng Tử truyền thuyết lịch sử, ca ngợi người anh hùng chinh phục đầm lầy, nhưng cũng có một Chử Đồng Tử cổ tích thần kỳ, với kiểu nhân vật chàng trai nghèo bất hạnh cưới công chúa. Có điều, đâu là văn bản truyền thuyết Chử Đồng Tử?

2. Quan hệ giữa truyền thuyết và cổ tích

Để làm rõ những hiện tượng phức tạp trên, chúng tôi thấy cần thiết phải xem xét trở lại mối quan hệ giữa truyền thuyết và cổ tích, đồng thời tiến hành đối sánh hai thể loại. Thao tác đối sánh bắt đầu từ khái niệm cho đến từng khía cạnh thuộc phạm trù thi pháp, chức năng thể loại…

2.1. Về khái niệm:

Trước hết, truyện cổ tích là gì?

Theo Nhikiphôrôp, nhà nghiên cứu folklore Nga, trong bài viết nhan đề “Truyện cổ tích, sự lưu hành truyện cổ tích và những người kể chuyện cổ tích” (in trong cuốn Truyện cổ tích dân gian Nga của Kapitxa M-L1930), ông đưa ra định nghĩa ngắn gọn như sau: “Truyện cổ tích là những truyện kể truyền miệng, lưu hành trong nhân dân, có mục đích giải trí người nghe, nội dung kể lại những sự kiện khác thường (những sự kiện tưởng tượng có tính chất thần kỳ hoặc thế sự) và mang những nét đặc trưng về hình thức cấu tạo và phong cách thể hiện”[ix]. Ở Việt Nam, trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, Lê Chí Quế trình bày khái niệm “truyện cổ tích” thông qua việc xác định bản chất thể loại của nó. Theo ông, “truyện cổ tích là sáng tác dân gian trong loại hình tự sự mà thuộc tính của nó là xây dựng trên những cốt truyện; truyện cổ tích là tác phẩm nghệ thuật được xây dựng thông qua sự hư cấu nghệ thuật thần kỳ; truyện cổ tích là một thể loại hoàn chỉnh của văn học dân gian, được hình thành một cách lịch sử...”[x]. Đặc biệt, PGS. Chu Xuân Diên, trong chuyên luận “Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học”, đã phân tích khá sâu sắc nội hàm khái niệm “cổ tích”.

Xin dẫn lại phần phân tích khái niệm “truyện cổ tích” của PGS. Chu Xuân Diên[xi].

Cổ tích là một từ Hán Việt. “Cổ” có nghĩa là xưa, cũ. Ta có khái niệm “truyện cổ” (hoặc “truyện cổ dân gian”), “truyện đời xưa” dùng để chỉ nhiều loại truyện dân gian khác nhau, trong đó có truyện cổ tích. Tương đương với khái niệm này trong tiếng Hán là “cố sự” (sự tích đời xưa) hoặc “dân gian cố sự”. Còn “tích” có nghĩa là gì? Hán Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn giới thiệu 29 nghĩa của từ “tích”, trong đó có hai nghĩa có liên quan đến khái niệm truyện cổ tích: 1) tích: dấu chân, dấu vết; 2) dấu vết cũ, dấu chân. Những nghĩa này còn giữ được gần như nguyên vẹn những nghĩa gốc tương đương của từ “tích” trong tiếng Hán: vết chân, dấu vết; những gì người xưa để lại (theo Khang Hi từ điển). Những sắc thái nghĩa trên của từ “tích” thấy có trong các nghĩa của từ “sự tích” (Hán Việt): 1) Đầu đuôi gốc tích của một việc; 2) Sự việc có thật; 3) Dấu tích của việc (theo Hán Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn). Nghĩa của từ “tích” trong các thành ngữ “truyện xưa tích cũ”, “có tích mới dịch nên tuồng”, rõ ràng có liên quan với khái niệm “sự tích”. Như vậy, trong các nghĩa của từ “tích” (Hán Việt) có bao hàm hai yếu tố: 1) sự việc, câu chuyện (→ sự tích); 2) dấu vết (→ di tích). Hai yếu tố này có lẽ đã khiến cho từ “cổ tích” (Hán Việt) mang hai nghĩa nói về hai hiện tượng khác nhau: 1) di tích xưa; 2) truyện đời xưa (theo Hán Việt từ điển). Nghĩa thứ nhất tương đương với từ “cổ tích” trong tiếng Hán: “Cổ tích = cổ nhân chi trần tích = dấu vết người xưa” (theo Từ điển từ nguyên). Còn nghĩa thứ hai thì chỉ có trong từ “cổ tích” Hán Việt. Khái niệm “truyện cổ tích” của ta được tiếng Hán biểu thị bằng từ “cố sự” (truyện cổ) hoặc “dân gian cố sự” (truyện cổ dân gian). Từ “cố sự” trong tiếng Hán còn được dùng để chỉ các loại truyện cổ khác nữa (cả thành văn lẫn dân gian).

Sau khi diễn giải, Chu Xuân Diên nhấn mạnh, khái niệm “truyện cổ tích” bao hàm ba yếu tố nghĩa: “truyện cổ tích là truyện kể; truyện kể này có quan hệ với thời quá khứ xa xưa cả về nội dung lẫn nguồn gốc phát sinh; dấu tích của truyện kể này vẫn còn lại cho đến nay”[xii].

Từ những phát biểu trên, chúng tôi hình dung, truyện cổ tích là những sáng tác tự sự dân gian, có cốt truyện hoàn chỉnh; chủ yếu dựa trên nhiều yếu tố tưởng tượng, kỳ ảo, hoang đường; truyện kể về những sự tích đời xưa nhưng dấu tích truyện kể còn lưu cho đến nay.

Còn truyền thuyết là gì? Có nhiều cách phát biểu về khái niệm truyền thuyết, nhưng nếu phỏng theo những đặc điểm vừa nêu của cổ tích, chúng tôi diễn đạt lại nội hàm của khái niệm truyền thuyết như sau: truyền thuyết là những sáng tác tự sự dân gian; có sự hiện diện của yếu tố tưởng tượng, kỳ ảo, hoang đường; truyện kể về nhân vật và sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ; truyện gắn liền với nhiều chứng tích văn hóa còn lưu cho đến nay. 

Và như vậy, chỉ xét qua khái niệm, truyền thuyết và cổ tích khá gần gũi nhau về đặc điểm thi pháp. Trong đó, có nhiều yếu tố khá trùng hợp: cùng là tác phẩm tự sự dân gian; có yếu tố kỳ ảo, hoang đường; tác phẩm kể chuyện quá khứ nhưng còn lưu dấu tích trong hiện tại.

Do mỗi thể loại đều được phân chia thành nhiều tiểu loại nên chúng tôi có nhu cầu xác định tiểu loại nào đã gây ra sự nhầm lẫn (hay đồng nhất) giữa truyền thuyết và cổ tích.

Trước hết, truyện cổ tích được chia thành ba tiểu loại: cổ tích về loài vật, cổ tích sinh hoạt, cổ tích thần kỳ. Cách chia này căn cứ vào đặc điểm nhân vật chính và thủ pháp xây dựng hình tượng. Cổ tích về loài vật kể lai lịch hình thành các giống vật; truyện có ít yếu tố thần kỳ. Cổ tích sinh hoạt kể chuyện đối nhân xử thế hàng ngày, với hai kỉểu nhân vật thường gặp là chàng ngốc (ngốc thật, giả ngốc) và người thông minh; truyện có ít yếu tố thần kỳ. Cổ tích thần kỳ kể về số phận và quá trình vượt thử thách của những nhân vật bất hạnh, nhân vật thông minh tài trí; truyện đậm đặc yếu tố thần kỳ. Cổ tích thần kỳ tiêu biểu cho đặc trưng thể loại cổ tích. Một số truyện cổ tích thần kỳ do có không gian, thời gian xác định, đặc biệt là nhân vật chính thường có lai lịch xác định nên dễ bị nhầm lẫn với truyền thuyết.

Còn truyền thuyết có nhiều tiểu loại phổ biến: truyền thuyết địa danh, truyền thuyết thần tổ ngành nghề, truyền thuyết lịch sử... Trong đó, truyền thuyết lịch sử, do có nhân vật lịch sử, có nhiều yếu tố kỳ ảo, hoang đường và chứng tích văn hóa còn lưu lại nên dễ bị nhầm lẫn với cổ tích thần kỳ.

Như vậy, xét từ cấp độ tiểu loại, sự nhầm lẫn hay đồng nhất giữa truyền thuyết và cổ tích thực chất tập trung vào mối quan hệ giữa hai tiểu loại: cổ tích thần kỳ và truyền thuyết lịch sử.

2.2. Về quan hệ giữa hai thể loại:

Xét thời điểm ra đời, truyền thuyết xuất hiện sớm và trước cổ tích rất lâu. Truyền thuyết tiếp ngay sau thần thoại, là nơi còn trầm tích tàn dư của thần thoại. Truyền thuyết được xem là phương cách lý giải lịch sử; cách tưởng nhớ nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử theo quan điểm của nhân dân. Truyền thuyết luôn gắn liền vận mệnh dân tộc. Nó là sự hòa quyện giữa “niềm tin” và “cái thiêng”; là sự kết hợp giữa “lịch sử” và “hư cấu”. Trong khi đó, cổ tích ra đời muộn hơn. Cổ tích tiếp sau truyền thuyết, là nơi còn trầm tích tàn dư của truyền thuyết. Một số truyện cổ tích được hình thành từ chính sự vận động và chuyển hóa thể loại của văn bản truyền thuyết. Cổ tích chỉ ra đời trong lòng một xã hội đã phân chia giai cấp và nảy sinh mâu thuẫn giai cấp về quyền lợi, địa vị. Cổ tích gắn liền số phận những người bất hạnh trong cuộc đời thường. Nó là phương cách mà nhân dân gởi gắm ước mơ, khát vọng về một cuộc đời tốt đẹp, công bằng, hạnh phúc. Nó là sự hòa quyện giữa “vẻ đẹp hồn nhiên, ngây thơ” và “chất thần kỳ, huyền ảo”; là sự kết hợp giữa “hiện thực” và “hư cấu”.

Theo tiến trình lịch sử, cho dù sử học đã hình thành, dòng sử chính thống đã đảm nhiệm vai trò lưu giữ lịch sử dân tộc nhưng thể loại truyền thuyết vẫn bền bỉ vận động, giữ nguyên bản chất thể loại và phát triển thêm số lượng tác phẩm. Sức sống dài lâu của truyền thuyết được bảo đảm bởi yếu tố “niềm tin” và “nội dung lịch sử”. Còn cổ tích, theo tiến trình lịch sử, lại dần mất đi điều kiện sinh tồn trong lòng văn học dân gian. Cổ tích, do không được tiếp nhận trên cơ sở “niềm tin” và nhất là không còn được nuôi dưỡng bằng một “hiện thực mơ hồ, huyền ảo” nên không còn tiếp tục phát triển, sinh sôi như truyền thuyết. Nhưng nguồn năng lượng vô hạn của cổ tích không mất đi. Nó được chuyển hóa vào văn học viết. Nó hiện diện qua những “chuyện cổ tích giữa đời thường”.

Như vậy, quan hệ giữa truyền thuyết và cổ tích là quan hệ tiếp nối và song hành. Cổ tích tiếp nối truyền thuyết, đón nhận sự chuyển hóa thể loại và tàn dư của truyền thuyết. Cổ tích song hành cùng truyền thuyết, cùng vận động và phát triển. Có điều, khi cổ tích hết vai trò tạo ra một “thế giới kỳ ảo chỉ có trong mơ ước” thì truyền thuyết vẫn còn nhận lãnh sứ mệnh là bộ sử dân gian.

 

3. Những điểm giống và khác nhau giữa cổ tích và truyền thuyết

3.1. Điểm giống nhau:

Nếu chỉ căn cứ vào khái niệm và mối quan hệ giữa hai thể loại, rõ ràng, hiện tượng nhầm lẫn (hay đồng nhất) giữa truyền thuyết lịch sử và cổ tích thần kỳ có nhiều khả năng xảy ra. Tất cả xuất phát từ một số nguyên nhân khách quan dưới đây:

- Cùng là tác phẩm tự sự dân gian (có nhân vật, cốt truyện, tình tiết, lời kể…).

- Cùng có sự hiện diện của yếu tố kỳ ảo, hoang đường.

- Mọi truyền thuyết đều gắn với nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử. Một số truyện cổ tích thần kỳ cũng có nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử.

- Truyền thuyết thường gắn liền chứng tích văn hóa (địa danh, núi sông, gò bãi, lăng mộ, lễ hội…). Một số truyện cổ tích thần kỳ cũng gắn liền với chứng tích văn hóa.

- v.v.

3.2. Điểm khác nhau:

Tuy nhiên, như nhiều nhà nghiên cứu folklore khẳng định, truyền thuyết và cổ tích là hai thể loại khác biệt nhau cả về chức năng lẫn thi pháp. Vì vậy, ở đây, chúng tôi chủ yếu so sánh sự khác nhau giữa chúng theo các tiêu chí thuộc về thi pháp và chức năng thể loại.

3.2.1. Thời gian:

Trong cổ tích thần kỳ, thời gian luôn mang tính ước lệ, tượng trưng. Chuyện thường bắt đầu bằng lời dẫn quen thuộc: “ngày xưa, thuở xưa, ngày xưa xưa lắm, không biết thời nào, một ngày nọ, bỗng hôm  kia, vào một đêm trăng…”. Kiểu thời gian mơ hồ này khiến câu chuyện luôn được bao bọc trong màn sương huyền ảo. Nó gợi ra một quá khứ thật xa xăm, đồng thời toát lên vẻ đẹp một đi không trở lại. Chính sự mơ hồ của thời gian khiến câu chuyện thêm phần hấp dẫn. Nó tạo cho người nghe cổ tích một nét tâm lý tiếp nhận: biết đâu ngày xưa đã từng xảy ra việc ấy! Thành ra, trong cổ tích, thời gian càng cụ thể, càng xác định, tính đáng tin của câu chuyện càng giảm dần[xiii].

Trái lại, thời gian trong truyền thuyết lịch sử bao giờ cũng mang tính xác định. Có điều, tính xác định của thời gian trong truyền thuyết không hoàn toàn đồng nhất với thời gian thực tế. GS. Kiều Thu Hoạch nói rõ hơn về đặc điểm này: “Chẳng hạn như giặc Ân trong truyền thuyết Thánh Gióng. Niên đại trong truyền thuyết này và truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh không ăn khớp gì với sự thật lịch sử. Vậy mà, qua hàng bao thế kỷ, nhân dân vẫn hiểu được: giặc Ân phi lịch sử đó là tượng trưng cho một thứ giặc ngoại xâm, niên đại phi lý đó là ước lệ cho một khoảng thời gian rất xa xưa. Thực ra, đây cũng là hiện tượng có tính phổ quát trong truyện kể dân gian thế giới, mà giới nghiên cứu folklore quốc tế thường gọi đó là sự thác ngộ thời gian (anachronisme) trong huyền thoại. Và đương nhiên, nhìn nhận từ góc độ folklore, thì đây cũng chính là một đặc trưng thể loại của truyền thuyết dân gian”[xiv].

Thời gian xác định khiến truyền thuyết luôn gắn với một triều đại cụ thể, thậm chí gắn với từng phút giây lịch sử. Trong truyền thuyết, chiến công và số phận của nhân vật lịch sử, nội dung sự kiện lịch sử chỉ có ý nghĩa, chỉ đáng tin khi được gắn kết với những thời điểm lịch sử cụ thể, xác định. Ví dụ, Thánh Gióng gắn liền thời Hùng Vương giữ nước, Hai Bà Trưng phất cờ - thời chống xâm lược Hán, Bà Triệu cưỡi voi ra trận - thời chống giặc Ngô,  Lê Lợi tập hợp hào kiệt - thời chống quân Minh, Trương Định lãnh chức Bình Tây nguyên soái - buổi đầu chống Pháp... Và hiển nhiên, niềm tin của người nghe (người đọc) truyền thuyết sẽ bị phá vỡ khi nhân vật và sự kiện lịch sử bị ghép sai với thời điểm lịch sử. Có thể nói, cụ thể, chính xác là yêu cầu đặt ra đối với thời gian truyền thuyết. Khác cổ tích, trong truyền thuyết, thời gian càng cụ thể, xác định, tính đáng tin của câu chuyện càng tăng dần.

Về cách thể hiện thời gian, truyện cổ tích không quan tâm đến thời gian thực, thời gian vật lý. Nó không có thời gian tâm lý. Trong cổ tích, thời gian giữ vai trò tạo không khí, dẫn dắt, liên kết các tình tiết chứ không nhằm khắc họa tính cách, số phận nhân vật. Nó được xem là một yếu tố nghệ thuật quan trọng trong tác phẩm.

Trái lại, truyền thuyết gắn chặt với thời gian thực, thời gian vật lý, đôi khi có cả sự hiện diện của thời gian tâm lý (trong một số truyền thuyết đời sau). Theo từng mốc  thời gian, nhân vật lịch sử sẽ lớn lên, gặp biến cố, lập chiến công và đến hồi kết cuộc (hy sinh hoặc hóa thân). Thời gian trong truyền thuyết không có chức năng tạo nên tính hấp dẫn, lôi cuốn cho câu chuyện như ở cổ tích. Điều quan trọng mà thời gian trong truyền thuyết có thể mang đến cho người nghe (người đọc) chính là tính đáng tin của câu chuyện kể.

Nói chung, nếu thời gian trong cổ tích chỉ tạo nên tính hấp dẫn cho câu chuyện chứ không nhằm khẳng định tính xác thực cho nội dung thì ngược lại, thời gian trong truyền thuyết chỉ giúp khẳng định tính xác thực cho nội dung chứ không nhằm tạo nên tính hấp dẫn cho câu chuyện.

3.2.2. Không gian:

Không gian tức là địa điểm, là nơi chốn mà câu chuyện diễn ra, nơi gắn liền với cuộc đời nhân vật và sự kiện trong tác phẩm.

Trong cổ tích thần kỳ, không gian là tất cả cảnh vật, cuộc sống nơi trần thế: một làng quê thân thuộc, với ruộng lúa, đồng cỏ, giếng nước, bờ ao... (Tấm Cám, Sọ Dừa...);  hay một gốc đa to, một khu rừng vắng (Thạch Sanh, Cây tre trăm đốt...); hoặc một bãi sông xa, một vùng biển rộng (Chử Đồng Tử, Sự tích núi Ngũ Hành, Sự tích con dã tràng...). Ngoài ra, còn một dạng không gian khác, đó là thế giới siêu nhiên, kỳ ảo: cõi thiên đình (Cóc kiện trời), cõi tiên (Từ Thức), âm phủ (Sự tích chùa Thủ Huồng), chốn thủy cung (Sự tích con dã tràng, Thạch Sanh...). Một số truyện cổ tích hội đủ cả không gian đời thường lẫn thế giới siêu nhiên, kỳ ảo. Không gian trong cổ tích thường được kết hợp với những từ ngữ mang tính phiếm chỉ: ngôi làng nọ, khu rừng kia, bến sông ấy... Nó cũng không có sự kết nối với một mốc thời gian cụ thể nào trong quá khứ. Nói chung, không gian trong cổ tích không mang tính cụ thể, xác định. Đặc điểm này khiến không gian cổ tích càng mơ hồ, sự chuyển cảnh càng đa dạng thì câu chuyện càng thêm phần hấp dẫn. Nó kéo theo một nét tâm lý tiếp nhận cổ tích là: người nghe (người đọc) không có nhu cầu tìm hiểu ngôi làng ấy, khu rừng ấy... hiện ở địa phương nào, hay người ta phải làm cách gì để lên được thiên đình, xuống tận thủy cung... Tất cả điều ấy làm cho cổ tích mãi mãi là những câu chuyện về một thế giới kỳ ảo, chỉ có trong mơ ước.

Khác cổ tích, truyền thuyết không có không gian đời thường, cũng không có thế giới siêu nhiên, kỳ ảo. Không gian trong truyền thuyết luôn mang tính cụ thể, xác định. Nó phải là những địa danh có thực, là không gian lịch sử, gắn liền với nhân vật và sự kiện lịch sử; gắn liền với thời gian lịch sử xác định. Nó đồng thời là những không gian thiêng, trường tồn cùng với sự bất tử của nhân vật lịch sử. Đơn cử, núi Tản Viên hóa chốn non thiêng vì gắn liền tên tuổi Sơn Tinh - vị anh hùng trị thuỷ, cũng là một trong Tứ bất tử trên thần điện Việt Nam. Sông Bạch Đằng trở thành địa danh lịch sử khi gắn với tên tuổi Ngô Quyền buổi đánh quân Nam Hán; gắn với thời đại Đông A, khi Trần Hưng Đạo cùng vua tôi nhà Trần đuổi giặc Nguyên – Mông. Tương tự như vậy, truyền thuyết đã lần lượt tạo nên những cặp sóng đôi: không gian lịch sử – nhân vật lịch sử. Có thể kể, đất Mê Linh – Hai Bà Trưng, núi Lam Sơn - Lê Lợi, Đám lá tối trời (Gò Công) - Trương Định, Gò Tháp (Đồng Tháp) - Thiên Hộ Dương, Thất Sơn huyền bí (An Giang) - Quản Cơ Trần Văn Thành...

Cần nói thêm, không gian trong cổ tích, do không mang tính cụ thể, xác định nên không chịu sự gán ghép, đặt để, kết dính với bất cứ một địa phương nào. Nói cách khác, truyện cổ tích là thể loại không mang tính địa phương, không thuộc sở hữu riêng của bất cứ bộ phận văn học dân gian địa phương nào. Tuy nhiên, nó lại là thể loại mang tầm quốc tế. Nói theo Chu Xuân Diên, “Tính chất quốc tế rõ ràng là một hiện tượng độc đáo nổi bật của truyện cổ tích. Truyện cổ tích có khả năng di chuyển từ dân tộc này sang dân tộc khác, vượt qua mọi ranh giới về ngôn ngữ, về lãnh thổ... của các quốc gia”[xv]. Trái lại, không gian trong truyền thuyết do mang tính cụ thể, xác định nên luôn gắn liền với những địa phương, vùng miền cụ thể. Truyền thuyết chủ yếu được gìn giữ, lưu truyền do chính những người dân địa phương - nơi đã sinh ra hoặc từng in dấu tích người anh hùng. Cho nên, có thể nói, truyền thuyết là thể loại văn học dân gian mang tính địa phương rất đậm nét.

3.2.3. Nhân vật:

Nhân vật chính trong cổ tích, đặc biệt ở cổ tích thần kỳ, là con người của đời thường, trong một xã hội phân chia giai cấp với đầy bất công, ngang trái. Đó là những nhân vật bất hạnh: đứa con mồ côi, đứa con riêng, người con út, người đi ở, nhân vật xấu xí... Diễn biến số phận của nhân vật trong cổ tích là một chuỗi dài bị thử thách, vượt qua thử thách, để rồi kết thúc có hậu, nhân vật được đền bù, được hưởng hạnh phúc dài lâu trong đời thường.

Trái lại, nhân vật chính trong truyền thuyết luôn là nhân vật lịch sử, là những anh hùng làm nên lịch sử. Một số đã được chính sử lưu danh, như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung, Trương Định... Nhưng phần nhiều là những anh hùng được nhân dân tôn vinh, tưởng nhớ. Họ là những nhân vật quần chúng hướng theo cờ đại nghĩa. Họ hiện diện trên khắp nẻo đường đánh giặc. Vì một dạ trung thành, dám xả thân phò tá, chở che chủ tướng, hoặc mưu trí lập công..., họ được nhân dân ngợi ca, tưởng nhớ bằng cách đưa vào truyền thuyết, trở thành nhân vật truyền thuyết. Có điều, kết cuộc của nhân vật trong truyền thuyết luôn mang tính chất “mở”. Nhân vật không như ở cổ tích, luôn gặp kết thúc có hậu, được hưởng hạnh phúc trong đời thường, mà phần nhiều, họ phải chịu tuẫn tiết, hy sinh, hóa thân vào hồn thiêng sông núi.

Về nghệ thuật thể hiện, mỗi nhân vật trong cổ tích thần kỳ luôn thuộc về một kiểu nhân vật nào đó (người mồ côi, người em út, người xấu xí mà tài ba...). Nhân vật cổ tích được xây dựng theo nguyên tắc: mỗi nhân vật chỉ xuất hiện trong một câu chuyện và chuỗi dị bản của truyện đó mà thôi. Ví dụ, cô Tấm chỉ có trong cổ tích Tấm Cám; Thạch Sanh chỉ có trong truyện cổ tích cùng tên; rồi Sọ Dừa, anh Khoai... cũng không ngoại lệ. Ngay cả trong nhiều câu chuyện khác nhau, dù người kể chỉ dùng một từ phiếm chỉ: “chàng trai nghèo nọ, cô gái kia” nhưng cũng không ai nghĩ rằng đó là một nhân vật được xuất hiện trong nhiều câu chuyện. Bởi lẽ, trong cổ tích, mỗi tác phẩm là câu chuyện trọn vẹn về cuộc đời một nhân vật. Một khi cổ tích đã kết thúc rồi thì xem như không còn gì kể thêm về nhân vật nữa.

Như cổ tích, trong truyền thuyết, nhân vật cũng luôn thuộc về một kiểu nhân vật nào đó (nhân vật có biệt tài, nhân vật được giúp sức, nhân vật bị hành quyết...). Nhưng khác cổ tích, nhân vật trong truyền thuyết còn xuất hiện theo nhóm truyện, hệ thống truyện. Ví dụ, nhóm truyền thuyết về anh hùng Lê Lợi, nhóm truyền thuyết về anh hùng Nguyễn Trung Trực, nhóm truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Thiên Hộ Dương... Sở dĩ có hiện tượng này là vì truyền thuyết không bao giờ xuất hiện riêng lẻ. Chính sự hiện diện của nhân vật lịch sử trong tác phẩm đã giúp các truyền thuyết rời rạc kết dính với nhau thành từng mảng, nhóm truyện. Nhờ đó, truyền thuyết luôn có số lượng phong phú và tồn tại theo hệ thống.

3.2.4. Tình tiết

Là tự sự dân gian nên truyền thuyết và cổ tích đều có cốt truyện. Cốt truyện được hình thành từ hệ thống các tình tiết.

Ở cổ tích, tình tiết chính trong những truyện có cùng kiểu nhân vật thường giống nhau. Ví dụ, ở chuỗi tình tiết nhân vật đi cứu công chúa (tìm người yêu, tìm thuốc quý, tìm kho báu...), trên đường đi, hễ gặp giống vật nào mắc nạn thì chàng trai (cô gái, người em) sẵn lòng dừng lại cứu giúp. Sau này, khi gặp thử thách, nhân vật sẽ lập tức được chính các giống vật ấy lần lượt giúp đỡ lại. Hay ở chuỗi tình tiết thử thách, thử thách sau bao giờ cũng cam go hơn thử thách trước, nhưng lúc nào nhân vật chính cũng vượt qua, để rồi được nhận phần thưởng cao quý hơn lần trước. Sự giống nhau này có thể xem là dạng “đại đồng tiểu dị”.

Còn truyền thuyết không như vậy. Mỗi truyền thuyết đều có những tình tiết riêng biệt của mình, kể cả trong những truyện có cùng kiểu nhân vật. Tuy truyền thuyết cũng sử dụng môtíp nhưng những môtíp này không theo công thức định sẵn như ở cổ tích. Ví dụ, nhân vật lịch sử, trên bước đường khởi nghĩa, không phải hễ mình giúp được ai (giống vật gì) thì ắt sau này sẽ được người  ấy (giống vật ấy) giúp đỡ lại. Phần nhiều, họ thành công là do bất ngờ có lực lượng phù trợ (trời, thần nhân, quần chúng mộ nghĩa). Và nhân vật lịch sử bao giờ cũng gặp thử thách. Nhưng không phải thử thách nào họ cũng vượt qua được. Thậm chí, họ còn bất ngờ gặp rủi ro, để rồi chiến bại.

Có thể nói, nếu tình tiết trong cổ tích thường ở dạng “đại đồng tiểu dị” thì tình tiết trong truyền thuyết lại mang tính cụ thể, không trùng lặp.

3.2.5. Kết cấu văn bản

Kết cấu một văn bản cổ tích nhìn chung ổn định và theo công thức: giới thiệu lai lịch, cảnh ngộ nhân vật → nhân vật gặp thử thách → vượt thử thách → kết thúc hạnh phúc[xvi]. Đặc biệt, trong cổ tích, kết thúc tác phẩm thường bao giờ cũng có “hậu”. Nhân vật bao giờ cũng được đền bù xứng đáng cho những bất hạnh, những thử thách nghiệt ngã mà mình phải gánh chịu, phải vượt qua. Phần thưởng cuối cùng cho nhân vật bao giờ cũng đủ lớn và có hiệu lực suốt đời, khiến người nghe (đọc) đều thỏa mãn, không chờ đợi gì thêm nữa.

Còn ở truyền thuyết, kết cấu văn bản hầu như không theo một công thức nào. Đặc biệt, kết thúc tác phẩm luôn theo hướng “mở”. Nhân vật, nếu lập chiến công sẽ bay về trời hoặc theo môtíp “đi đâu không biết”. Nhân vật, nếu phải chịu tuẫn tiết, hy sinh thì hiển linh, thành phúc thần phò trợ nhân dân. Cách kết thúc này khiến nhân vật truyền thuyết không thể trở lại sống cuộc đời thường nhưng cũng không thể chết. Bởi nhân vật đã bất tử trong lòng nhân dân.

Về lời kết, cổ tích thần kỳ và truyền thuyết lịch sử hay nhắc đến những chứng tích văn hóa còn lưu lại (một phong tục của làng xã, một tập tính của loài vật, một hình thể của núi non...). Tuy nhiên, mục đích kết thúc của hai thể loại khác nhau rõ rệt. Ở cổ tích, nói theo GS. Đỗ Bình Trị, “những chi tiết đó không phải là những bằng chứng chứng tỏ câu chuyện kể là có thật như những “cổ tích” trong truyền thuyết lịch sử. Đó là những chi tiết nghệ thuật nhằm đem lại cho câu chuyện kể có tính chất tưởng tượng, tính chất hư cấu kỳ ảo (tức là truyện cổ tích) một màu sắc có vẻ như thật. Thế thôi”[xvii]. Trong khi đó, ở truyền thuyết, những chứng tích văn hóa được nêu ở cuối tác phẩm lại là thành tố không thể thiếu của thể loại. Nó là yếu tố giữ gìn sức sống của truyền thuyết

3.2.6. Vị trí, vai trò của sự kiện lịch sử

Truyện cổ tích nhằm phản ánh cuộc sống thường ngày, với những mối quan hệ gia đình, xã hội. Cho nên, sự kiện lịch sử, nếu có, cũng không phải nội dung phản ánh của cổ tích, càng không phải mục đích mà tác phẩm cần lý giải, soi sáng. Phần  lớn những sự kiện lịch sử ấy xuất hiện là do có liên quan đến nhân vật lịch sử trong truyện - hệ quả của phần truyền thuyết bồi lắng lại.

Trong khi đó, truyền thuyết chủ yếu phản ánh con người và sự kiện lịch sử, cho nên sự kiện lịch sử chính là phần nội dung quan trọng của truyền thuyết, cũng là mục đích mà tác phẩm cần lý giải, soi sáng. Có điều, truyền thuyết không làm nhiệm vụ ghi chép như sử biên niên. Truyền thuyết chỉ thông qua sự kiện lịch sử để làm sáng tỏ phần nào những khuất lấp mà chính sử không nói đến; để rút ra bài học lịch sử theo cách nhìn, cách phán xét của nhân dân.   

3.2.7. Chức năng tác phẩm

Do tính nguyên hợp, mỗi thể loại văn học dân gian đều hàm chứa trong nó nhiều chức năng. Tuy nhiên, mỗi thể loại vẫn giữ một (hoặc vài) chức năng chủ yếu.

Về nội dung, truyện cổ tích luôn ca ngợi phẩm chất người lao động nghèo, hướng con người về với hạnh phúc trong đời thường. Truyện cũng phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp cùng những xung đột gay gắt về quyền lợi trong gia đình lẫn ngoài xã hội. Nhưng hình như cổ tích không nhằm giục người ta vùng lên đấu tranh đòi lại công bằng. Bởi cổ tích luôn có hậu. Cổ tích luôn luôn trao tặng con người một niềm tin bền vững: ở hiền sẽ gặp lành, gieo gió thì gặt bão.

Có thể nói, tuy hàm chứa chức năng nhận thức, giáo dục nhưng cổ tích vẫn  là thể loại nghiêng về chức năng thẩm mỹ. Bởi lẽ, một câu chuyện cổ tích hấp dẫn, ly kỳ bao giờ cũng gợi lên những xúc cảm đẹp, niềm lạc quan cho cả người kể lẫn người nghe. Ai nấy, một khi đắm chìm vào thế giới cổ tích, đều như được an ủi, động viên, được cơ hội ước mơ và hy vọng.

Còn với truyền thuyết, chức năng chính không phải là thẩm mỹ; mục đích cao nhất của nó không phải là giải trí, cho dù nhiều tác phẩm có nội dung ly kỳ, hấp dẫn. Bởi không ai đi tìm cảm giác thư giãn, niềm vui thích từ những câu chuyện chiến đấu, hy sinh đầy đau thương, bi tráng của cha ông. Mọi người đến với truyền thuyết phần nhiều từ nhu cầu tâm linh. Từ chỗ nội dung luôn đề cập đến vận mệnh cộng đồng, luôn gắn số phận mỗi con người với số phận toàn dân tộc, truyền thuyết giúp đời sau hiểu đúng lịch sử dân tộc mình theo quan điểm của nhân dân. Truyền thuyết nhắc nhở mọi người đừng lãng quên tất cả những gì gợi nhớ các bậc anh hùng, nghĩa sĩ đã xả thân vì dân tộc. Truyền thuyết dạy mỗi người biết tự hào về quá khứ và sống có trách nhiệm hơn với hiện tại.

Nói chung, trong khi cổ tích nghiêng về chức năng thẩm mỹ thì truyền thuyết thiên về chức năng nhận thức và giáo dục.

3.2.8. Thái độ tiếp nhận

Đối với cổ tích, ở phương Tây, người kể chuyện (cũng được xem là đối tượng tiếp nhận tác phẩm đầu tiên) thường kết thúc chuyện bằng câu: “Thế là hết bịa thêm gì được nữa!”. Ở Việt Nam, lối mở đầu chuyện bằng cách giới thiệu thời gian, không gian mơ hồ, kiểu “hồi xưa xưa lắm, không biết ở thời nào...” cũng là cách tiếp sức cho tính chất bịa đặt của chuyện cổ tích. Còn người nghe (đọc) cổ tích (thuộc mọi dân tộc, mọi thời đại) tuy luôn bị lôi cuốn bởi tính ly kỳ của câu chuyện nhưng không mấy ai tin rằng câu chuyện ấy có thật. Trẻ con hồn nhiên có thể tin là thật. Nhưng chúng sẽ sớm hiểu rằng, cổ tích chỉ là những câu chuyện tưởng tượng, chỉ là giấc mơ đẹp của người xưa. Về điều này, Prop từng nhận định, “không tin vào những điều được kể lại trong truyện cổ tích” là một dấu hiệu đặc trưng rất quan trọng của truyện cổ tích[xviii].

Nhưng đối với truyền thuyết, niềm tin, đức tin trở thành cốt lõi của tác phẩm. Vì vậy, cả người kể lẫn người nghe (đọc) truyền thuyết đều tin câu chuyện là thật. Niềm tin ấy gắn liền với “cái thiêng”. Người ta tin truyền thuyết đến độ đôi khi không xem nó là một tác phẩm nghệ thuật mang chức năng giải trí mà chính là câu chuyện thuộc về tôn giáo và tín ngưỡng.

Từ phần diễn giải trên, chúng tôi xin tổng hợp thành bảng so sánh giữa truyền thuyết lịch sử  và chuyện cổ tích thần kỳ (xem Bảng 1)

Bảng 1: SO SÁNH CỔ TÍCH THẦN KỲ VÀ TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬ

 

TIÊU CHÍ SO SÁNH

CỔ TÍCH THẦN KỲ

TRUYỀN THUYẾT

LỊCH SỬ

ĐIỂM

GIỐNG

NHAU

Dạng thức

Tự sự dân gian (có nhân vật, cốt truyện, tình tiết, lời kể…)

Phương pháp phản ánh

Cùng có sự hiện diện của yếu tố kỳ ảo, hoang đường.

Nội dung

lịch sử

Mọi truyền thuyết đều gắn với nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử. Một số truyện cổ tích thần kỳ cũng có nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử.

Chứng tích văn hóa

Truyền thuyết thường gắn liền chứng tích văn hóa (địa danh, núi sông, gò bãi, lăng mộ, lễ hội…). Một số truyện cổ tích thần kỳ cũng gắn liền với chứng tích văn hóa.

ĐIỂM KHÁC NHAU

Thời gian

Mơ hồ, ước lệ

Cụ thể, xác định

Không gian

- Không gian đời thường + thế giới siêu nhiên, kỳ ảo

- Không gắn với thời gian lịch sử xác định

- Không gắn liền với nhân vật, sự kiện lịch sử xác định.

- Không mang dấu ấn địa phương

- Không gian lịch sử, không gian thiêng

- Gắn với thời gian lịch sử xác định

- Luôn gắn liền với nhân vật, sự kiện lịch sử xác định

- Mang tính địa phương rõ nét

Nhân vật

-    Con người của đời thường, trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp, nhiều bất công,

-    Số phận nhân vật gắn liền hạnh phúc trong đời thường.

-    Nhân vật lịch sử, trong lúc vận mệnh dân tộc đang gặp khó khăn, thử thách,

-    Số phận nhân vật luôn gắn liền số phận toàn dân tộc.

Tình tiết

Thường giống nhau theo kiểu “đại đồng tiểu dị”

Cụ thể, không trùng lặp

Kết cấu văn bản

-    Nhìn chung ổn định và theo công thức.

-    Kết thúc tác phẩm theo hướng có “hậu”.

- Hầu như không theo công thức nào.

- Kết thúc tác phẩm luôn theo hướng “mở”.

Vị trí, vai trò của sự kiện lịch sử

- Không là nội dung chính của tác phẩm

- Không nhằm phản ánh, đánh giá, rút ra bài học lịch sử

- Là nội dung chính của tác phẩm

- Nhằm phản ánh, đánh giá, rút ra bài học lịch sử

Chức năng tác phẩm

Thiên về chức năng thẩm mỹ, với mục đích giải trí (gợi lên xúc cảm đẹp, niềm lạc quan cho mọi người)

Thiên về chức năng nhận thức và giáo dục (đánh giá lịch sử; biết ơn, tôn thờ, ngưỡng mộ người có công đức)

Thái độ

tiếp nhận

- Có thể tin hoặc không tin vào điều được kể

- Không có nhu cầu gắn tác phẩm với chứng tích văn hóa

- Luôn có niềm tin vào điều được kể

- Luôn có nhu cầu gắn tác phẩm với chứng tích văn hóa

4. Những nhận xét và kiến nghị

Từ quá trình phân tích, tổng hợp và đối sánh trên, chúng tôi xin rút ra một vài nhận xét và kiến nghị:

4.1. Truyền thuyết và cổ tích là hai thể loại có mối quan hệ biện chứng, theo hướng tiếp nối và song hành. Trong quá trình vận động và phát triển, chúng có sự giao thoa và chuyển hóa ở cấp độ thể loại; đặc biệt là hiện tượng cổ tích hóa truyền thuyết.

4.2. Sự nhầm lẫn hay đồng nhất giữa hai thể loại, nếu có, chủ yếu là do mối quan hệ giữa hai tiểu loại: truyền thuyết lịch sử và cổ tích thần kỳ. Việc kết luận một văn bản nào đó là truyền thuyết hay cổ tích cũng đồng nghĩa với việc thay đổi nhận thức về chức năng và đặc điểm thi pháp của văn bản ấy. Những sai lầm này rất nghiêm trọng, do vậy, không nên xảy ra, nhất là đối với các nhà nghiên cứu folklore.

4.3. Trong số những điểm khác nhau giữa hai thể loại, theo chúng tôi, tiêu chí phân biệt quan trọng nhất chính là đặc điểm về số phận nhân vật và sự kiện lịch sử. Nếu trong cổ tích, nhân vật là con người của đời thường thì trong truyền thuyết, đó lại là nhân vật lịch sử, gắn liền với những thời điểm lịch sử trọng đại của dân tộc. Nếu trong cổ tích, nhân vật đấu tranh chỉ vì mưu cầu cuộc sống hạnh phúc trong đời thường thì trong truyền thuyết, nhân vật sẵn sàng hy sinh vì sự tồn vong của cả đất nước và dân tộc. Nếu trong cổ tích, sự kiện lịch sử không phải là nội dung phản ánh chủ yếu thì trong truyền thuyết, đó lại là phần nội dung quan trọng, làm nên dấu hiệu đặc trưng của thể loại.

Trường hợp các truyện Chử Đồng Tử, Bánh chưng bánh giầy, Sự tích dưa hấu... sở dĩ được nhiều nhà nghiên cứu đưa vào cổ tích, theo chúng tôi biết, là vì tiêu chí này: chúng thuộc kiểu nhân vật người mồ côi, người em út, người bất hạnh và kết cuộc tác phẩm đều hướng về cuộc sống hạnh phúc trong đời thường.

4.4. Về bản chất, cổ tích và truyền thuyết đều là sản phẩm của sự hư cấu (tưởng tượng, bịa đặt). Có điều, sự hư cấu trong cổ tích chỉ nhằm tạo nên tính hấp dẫn cho câu chuyện chứ không tạo nên niềm tin nơi người nghe (người đọc). Trái lại, sự hư cấu trong truyền thuyết lại có vai trò củng cố niềm tin, đức tin cho người tiếp nhận. Vậy thì chúng ta có nên dùng tiêu chí “niềm tin” để phân biệt văn bản cổ tích và truyền thuyết không? Theo chúng tôi, đây là điều khó thực hiện. Bởi lẽ, trong thực tế, không ít câu chuyện cổ tích đã được tiếp nhận bằng một niềm tin! Vẫn ví dụ từ trường hợp các truyện Chử Đồng Tử, Bánh chưng bánh giầy, Sự tích dưa hấu... Người ta tin vào nội dung những câu chuyện ấy, tin vào nhân vật, vào sự kiện lịch sử, đơn giản là vì tiền thân của chúng chính là truyền thuyết. Chúng là minh chứng cho hiện tượng truyền thuyết đã được cổ tích hóa.

Mỹ Tho, tháng 6 năm 2008

(Bài đăng trong Tạp chí Khoa học – Công nghệ - trường Đại học Tiền Giang, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, số tháng 5/2009)

TÓM TẮT

 

Theo lý thuyết folklore, truyền thuyết và cổ tích là hai thể loại khác biệt nhau rõ rệt. Tuy vậy, trong lý thuyết lẫn thực tế, việc xác định một truyện cổ dân gian nào đó là truyền thuyết hay cổ tích thật không đơn giản.

Xét từ cấp độ tiểu loại, sự nhầm lẫn hay đồng nhất giữa truyền thuyết và cổ tích thực chất tập trung vào mối quan hệ giữa hai tiểu loại: cổ tích thần kỳ và truyền thuyết lịch sử.

Xét về quan hệ, truyền thuyết và cổ tích có quan hệ tiếp nối và song hành.

Ngoài một vài điểm giống nhau, hai thể loại này gần như khác nhau rõ rệt về nhiều mặt. Trong số những điểm khác nhau ấy, theo chúng tôi, tiêu chí phân biệt quan trọng nhất chính là đặc điểm về số phận nhân vật và sự kiện lịch sử.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

 

1.     Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian – mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, Hà Nội: Giáo Dục.

2.     Nguyễn Định (2006), Sự khác nhau giữa hai khái niệm Truyện cổ dân gian và Truyện cổ tích, Tạp chí Văn hoá Dân gian, Số 4(106), dẫn theo www.vae.org.vn

3.     Nguyễn Xuân Đức (2002), Vấn đề phân loại truyện dân gian, Thông báo Văn hóa dân gian, NXB ĐHQG, Hà Nội, tr.356.

4.     Nguyễn Xuân Đức (2003), Truyện “Bánh chưng bánh giầy” là truyền thuyết hay cổ tích, Thông báo Văn hóa dân gian 2002, NXB ĐHQG, Hà Nội, tr.565.

5.     V. Guxep (1999), Mỹ học Folklore, NXB Đà Nẵng.

6.     Hồ Quốc Hùng (2003), Truyền thuyết Việt Nam & vấn đề thể loại, NXB Trẻ – Hội Nghiên cứu & Giảng dạy Văn học TP.HCM.

7.     V. IA. Propp (1976), Phônclo và thực tại, NXB Khoa Học, Moskva (Bản dịch tiếng Việt của Chu Xuân Diên – tài liệu đánh máy).

8.     Lê Chí Quế (chủ biên) (1999), Văn học dân gian Việt Nam, NXB ĐHQG Hà Nội.

9.     Ngô Đức Thịnh (đồng chủ biên), (2005), Folklore - một số thuật ngữ đương đại, NXB KHXH, Hà Nội.

10. Đỗ Bình Trị (đồng tác giả) (1996), Môn Văn và Tiếng Việt tập III (tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên), Hà Nội: Giáo Dục.

 

[i] Xin đọc thêm Nguyễn Định, Sự khác nhau giữa hai khái niệm Truyện cổ dân gian và Truyện cổ tích, Tạp chí Văn hoá Dân gian, 2006, Số 4 (106). Dẫn theo www.vae.org.vn.

[ii] Đỗ Bình Trị (đồng tác giả) (1996), Môn Văn và Tiếng Việt tập III, tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên, Hà Nội: Giáo dục, tr.52.

[iii] Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển Văn học (bộ mới), NXB Thế giới mới, tr.1835 và tr.1840.

[iv] Chu Xuân Diên (2001), Văn hóa dân gian – mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, Hà Nội: Giáo Dục, tr.239.

[v] Môn Văn và Tiếng Việt tập III, Sđd, tr.114.

[vi] Văn hóa dân gian – mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, Sđd, tr.231.

[vii] Xin đọc thêm Nguyễn Xuân Đức (2001), Vấn đề phân loại truyện dân gian, Thông báo Văn hóa dân gian 2001, tr.356.

[viii] Nguyễn Xuân Đức (2003), Truyện “Bánh chưng bánh giầy” là truyền thuyết hay cổ tích, Thông báo Văn hóa dân gian 2002, Hà Nội: ĐHQG, tr.565.

[ix] Văn hóa dân gian – mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, Sđd, tr.226.

[x] Văn học dân gian Việt Nam, Sđd, tr.107.

[xi] Văn học dân gian Việt Nam, Sđd, tr.229.

[xii] Văn học dân gian Việt Nam, Sđd, tr.230.

[xiii] Theo chúng tôi, những truyện cổ tích không mang đặc điểm này đều là những ngoại lệ. Chúng là những truyền thuyết đã được cổ tích hóa (VPC).

[xiv] Theo Kiều Thu Hoạch (2006), Văn học dân gian người Việt – góc nhìn thể loại, Hà Nội: KHXH, tr.17.

[xv] Văn hóa dân gian – mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, Sđd, tr224.

[xvi] Trường hợp truyện Trạng Quỳnh là hiện tượng đặc biệt, nằm ngoài phạm vi đối sánh của chúng tôi (VPC).

[xvii] Môn Văn và Tiếng Việt tập III, Sđd, tr.115.

[xviii] Văn hóa dân gian – mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, Sđd, tr.238.

Võ Phúc Châu
Post by: Vu Nguyen HNUE
10-10-2020