GS.TS Vũ Anh Tuấn_Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt: Tính nguyên hợp là đặc trưng cơ bản có ý nghĩa định lượng, định tính những vấn đề thuộc về bản chất xã hội và bản chất nghệ thuật của văn học dân gian. Việc phát hiện và làm sáng tỏ thuộc tính văn học dân gian là một chỉnh thể nguyên hợp của giáo sư Đinh Gia Khánh thông qua các kết quả nghiên cứu trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn của ông đã đặt nền móng cho khoa nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam, có giá trị mở ra một hướng tiếp cận mới có tính đột phá, từ đó khẳng định nghiên cứu folklore nghệ thuật ngôn từ là một khoa học độc lập nhưng không đối lập với khoa học văn học từ góc nhìn văn hóa.
Từ khóa: Đinh Gia Khánh, chỉnh thể nguyên hợp, bản chất xã hội, bản chất nghệ thuật, nguyên tắc thẩm mĩ, folklore nghệ thuật ngôn từ, văn hóa dân gian
ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 2003, trên Tạp chí Nguồn sáng dân gian số 2, GS Nguyễn Xuân Kính đã có bài báo với nhan đề “ Nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh”. Trong đó, ông khẳng định: Giáo sư Đinh Gia Khánh là nhà nghiên cứu văn học đầu ngành và là người đặt nền móng cho khoa nghiên cứu Văn hóa dân gian. Đây là một bài viết ngắn gọn nhưng đã bao quát một cách toàn diện chân dung khoa học của một bậc Sư biểu trong học giới và có giá trị trong việc gợi mở ra những vấn đề học thuật của chuyên ngành văn học dân gian Việt Nam từ sự kế thừa di sản Đinh Gia Khánh để lại cho các thế hệ nghiên cứu về sau. Trong tiểu luận này, chúng tôi chỉ nhấn mạnh một nhận thức có ý nghĩa then chốt khi bước vào lĩnh vực nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam như tôi được biết trong khoảng ba mươi năm trở lại đây. Dấu mốc này là tôi lấy thời điểm Viện nghiên cứu văn hóa dân gian cho ra đời tập sách Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu và liền sau đó là Văn hóa dân gian những phương pháp nghiên cứu sau đúng mười năm diễn ra sự kiện Ban văn hóa dân gian được thành lập vào tháng 12 năm 1979. Tôi quan niệm những tri thức được tích hợp trong hai cuốn sách trên là kết quả nghiên cứu của cả ngành folklore học Việt Nam được thu hút vào trung tâm – Ban sau đó là Viện nghiên cứu văn hóa dân gian – từ đó nó trở thành những tài liệu nhập môn cho các chuyên gia trẻ bước vào lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy văn học dân gian trên cả hai bình diện lý luận và phương pháp chuyên ngành. Trong đó có hai bài viết quan trọng mở đầu hai cuốn sách đều là của Giáo sư Đinh Gia Khánh và là hai tiểu luận có vị trí đặc biệt có giá trị mở ra một hướng tiếp cận mới bắt đầu từ một khái niệm được định danh là tính nguyên hợp của văn học dân gian. Như chúng ta đều biết trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Giáo sư Đinh Gia Khánh đã có những thành tựu cống hiến hết sức to lớn vào khoa học văn học dân gian Việt Nam. Ngay trong những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước, dường như trong cùng một thời gian khi ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội có Giáo trình Văn học dân gian được biên soạn bởi một tập thể tác giả do Bùi Văn Nguyên chủ biên thì Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam dành cho sinh viên ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội của Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên cũng được xuất bản. Trong suốt thập kỷ này cho đến năm 1975, vấn đề bản chất xã hội, bản chất nghệ thuật và vai trò của văn học dân gian trong đời sống văn hóa tư tưởng nhìn chung còn chưa được nhận thức và đánh giá đúng đắn như nó vốn có. Chính trong bối cảnh đó, bằng những bài báo khoa học, những bài giảng trên giảng đường và cả sách chuyên khảo của mình, Giáo sư Đinh Gia Khánh đã dứt khoát khẳng định “Vai trò chủ đạo của văn học dân gian” trong lịch sử tư tưởng– văn hóa truyền thống dân tộc và chính ông đã từng bước làm sáng tỏ vấn đề bằng cách đưa ra những biểu hiện đầy tính thuyết phục và hấp dẫn nằm ngay trong “ mối quan hệ khăng khít và đặc thù” của văn chương truyền miệng với lịch sử dân tộc. Tuy nhiên trước 1975, các nghiên cứu cụ thể về văn học dân gian nhìn chung vẫn chưa vượt thoát ra ngoài sự chế định của cái khung khổ văn chương viết. Vấn đề này chỉ được giải quyết trong suốt thập kỷ 80 của thế kỷ trước, sau các tranh luận đặc biệt sôi động về một khái niệm folklore: là văn hóa dân gian, văn nghệ dân gian hay văn học dân gian, và người đứng ra tổng kết vấn đề này cũng lại chính là Giáo sư Đinh Gia Khánh. Hiển nhiên, đây không chỉ là một kết quả tích hợp tri thức chuyên ngành hết sức quan trọng từ những ý kiến đa chiều của các nhà nghiên cứu văn học dân gian hàng đầu vào thời điểm đó sau cả một thập kỷ dày công nghiên cứu ở Viện văn hóa dân gian do giáo sư phụ trách, mà còn là sự tích hợp và tỏa sáng bởi chính cái tâm điểm của mọi vấn đề trong chủ đích và tư tưởng học thuật của ông cũng như trong quan niệm nhất quán của ông về văn học dân gian, đã từng được ông khởi xướng muộn nhất cũng là từ năm 1972. Đó là tính chất nguyên hợp của văn hóa, văn nghệ dân gian trong đó folklore nghệ thuật ngôn từ luôn luôn vừa là văn học vừa là văn hóa. Nói cách khác, trước sau như một ông vẫn chủ trương tính nguyên hợp là một đặc trưng cơ bản và có vị trí xuyên suốt tiến trình phát triển lịch sử các thể loại của mọi nền văn chương truyền miệng. Tôi nhận ra từ các công trình nghiên cứu văn học dân gian của Giáo sư Đinh Gia Khánh, đây là một vấn đề có tính nguyên tắc đến mức chỉ có thể quan niệm như thế, người nghiên cứu mới phát hiện ra được và đi tới tận cùng giá trị tư tưởng thẩm mỹ của toàn bộ các hiện tượng và quá trình một tác phẩm văn học thuộc về văn hóa dân gian. Nếu thật sự đúng như vậy, có thể nói như nhan đề bài viết của chúng tôi, rằng: Khoa học văn học dân gian Việt Nam đã có một sự đột phá toàn cục trong nghiên cứu bắt đầu từ một khái niệm mới của Giáo sư Đinh Gia Khánh. Đó là khái niệm tính nguyên hợp của văn học dân gian.
NỘI DUNG
1. Lược điểm lịch sử ra đời khái niệm và hướng tiếp cận nghiên cứu
Về nội hàm khái niệm tính nguyên hợp theo quan niệm của GS Đinh Gia Khánh, đúng như GS Nguyễn Xuân Kính trong bài báo nói trên đã viết “Để đi đến sự khẳng định: Văn hóa dân gian (folklore) là nghệ thuật nguyên hợp, nhà nghiên cứu đã dành hẳn một chương trong số bảy chương của cuốn sách chuyên luận Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian để phân tích. Tính nguyên hợp (sycrestisme) của văn hóa văn nghệ dân gian (folklore) được thể hiện trên ba bình diện chủ yếu:
1. Mối quan hệ rất chặt chẽ giữa nghệ thuật và thực tiễn;
2. Mối quan hệ giữa các thành tựu khác nhau của những thời đại khác nhau và của những địa phương khác nhau,
3. Mối quan hệ giữa các thành tố của folklore.”
Từ thời điểm đó đến nay đã qua hơn bốn thập kỷ, và trong khoa học văn học dân gian Việt Nam đã có rất nhiều những công trình tác phẩm nghiên cứu có giá trị dấu mốc quan trọng được bắt đầu từ hướng tiếp cận đối tượng nghiên cứu như là một chỉnh thể hệ thống có tính nguyên hợp. Thực tế đó đã chỉ dẫn chúng tôi trở lại với hai bài viết có ý nghĩa dấu mốc như đã lược điểm ở trên. Đặc biệt trong bài viết “Phương pháp tổng hợp trong việc nghiên cứu folklore”, chỉ với 11 trang in khổ 13x19 quen thuộc thời đó (1990), tôi đã đếm được 26 lần giáo sư trở đi trở lại với khái niệm này: tính nguyên hợp; nghệ thuật nguyên hợp; chỉnh thể nguyên hợp; giá trị toàn diện nguyên hợp, giá trị thẩm mỹ nguyên hợp...trong đó cụm từ “chỉnh thể nguyên hợp” được ông nhắc đến 11 lần. Tôi đã cố gắng tự tìm hiểu rất tỷ mỉ từng chi tiết ngữ nghĩa của từng cụm từ như đã dẫn, từ đó vừa tự mình vận dụng vào một số vấn đề nghiên cứu trường hợp hoặc gợi mở cho các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh của tôi từ hướng tiếp cận một chỉnh thể nguyên hợp folklore để từng bước “nhập sâu vào đối tượng” nghiên cứu. Bởi vì như các nhà khoa học trước nay đều thừa nhận rằng: Ở mỗi nhà khoa học, khái niệm được họ sử dụng có ý nghĩa then chốt trong các nghiên cứu của họ thật sự là không nhiều, thậm chí ngay đến cả một học thuyết dường như cũng chỉ xoay quanh vài ba khái niệm cơ bản. Để hiểu được nó, có khi chỉ từ việc khám phá cho được nội hàm của các khái niệm đó là đã thấy được chân giá trị của những vấn đề học thuật cần phải nhận thức. Theo đó, có thể khẳng định việc đưa ra một khái niệm mới có giá trị định danh, định tính cho một đặc trưng hàng đầu thuộc về bản chất xã hội và bản chất nghệ thuật của văn học dân gian là một đóng góp đặc biệt quan trọng của Giáo sư Đinh Gia Khánh đối với khoa học nghiên cứu văn học dân gian Việt nam, có giá trị mở đường. Chỉ có thể xuất phát từ đặc trưng nguyên hợp của văn học dân gian, người nghiên cứu mới có thể khám phá được những giá trị đặc thù của mỹ học folklore, trong đó có những thuộc tính và phẩm chất tư tưởng thẩm mỹ có thể xem như là “nghịch lý” trong sự so sánh với văn chương viết. Điều này đúng với cả những tác phẩm folklore nghệ thuật ngôn từ thuộc những thể loại trong đó có những tác phẩm đã đạt tới trình độ “mẫu mực cổ điển” xét từ góc độ so sánh với nghệ thuật ngôn từ thuần túy. Vì thế, có thể nói từ sau khi trong học giới chuyên ngành văn hóa dân gian đã có những thành tựu nghiên cứu nhất định để có được những mẫu số chung về danh pháp thể loại cũng như về hệ thống các thuật ngữ cơ bản của khoa học chuyên ngành thì vấn đề đặc trưng của văn học dân gian trong hệ quy chiếu văn hóa dân gian, văn nghệ dân gian (folklore) cũng từng bước tìm được tiếng nói chung.
Sự phân tích của GS. Đinh Gia Khánh là thỏa đáng. Nhân đây, cần phải nói thêm rằng tác giả là người đầu tiên đưa khái niệm “ tính chất nguyên hợp” vào khoa nghiên cứu văn hóa văn nghệ dân gian Việt nam. Từ những năm 1972 – 1973, người đọc thấy khái niệm này xuất hiện trong bộ giáo trình Văn học dân gian (hai tập) do ông làm chủ biên
Thật vậy, với chúng tôi ở hệ thống các trường Đại học Sư phạm cho đến trước năm 1990, trong các giáo trình văn học dân gian như tôi biết, khi viết về đặc trưng của bộ phận văn học này, các tác giả vẫn thường chỉ nêu lên ba luận điểm cơ bản gồm tính truyền miệng, tính tập thể và tính dị bản. Vấn đề tính nguyên hợp được định danh từ năm 1972 của Giáo sư Đinh Gia Khánh thì như ở Đại học Sư phạm Hà Nội, phải đến tập Giáo trình Văn học dân gian dành cho ngành ngữ văn hệ đào tạo tại chức và từ xa (PGS.TS Phạm Thu Yến chủ biên) do Nxb ĐHSP xuất bản lần đầu tiên năm 2002, các tác giả mới đưa đặc trưng Văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật nguyên hợp vào tiểu mục số 1, sau đó là tính thực hành và tính tập thể-truyền miệng. Năm 2008, trong Giáo trình văn học dân gian Việt Nam dùng cho sinh viên Việt Nam học do PGS.TS Nguyễn Bích Hà biên soạn được Nxb ĐHSP xuất bản lần đầu tiên, tác giả đưa ra hệ thống đặc trưng văn học dân gian gồm 5 tiểu mục theo thứ tự: Văn học dân gian là sáng tạo của tập thể; tính truyền miệng là phương thức lưu truyền đặc biệt của văn học dân gian; tính chất nguyên hợp (tổng hợp tự nhiên); tính chất thực hành trực tiếp; tính dị bản. Cũng ở Đại học Sư phạm Hà Nội, trong chương trình đào tạo Cao học chuyên ngành văn học dân gian từ năm 2005, tính nguyên hợp của văn học dân gian đã được lưu ý trong chuyên đề nghiên cứu mối quan hệ truyền thuyết và lễ hội dân gian; cũng từ đó trong chương trình đào tạo NCS tiến sĩ chuyên ngành văn học dân gian, chúng tôi xây dựng thêm chuyên đề bắt buộc nghiên cứu về “Đặc trưng nguyên hợp của văn học dân gian”. Năm 2012, khi biên soạn Giáo trình Văn học dân gian dùng cho sinh viên Khoa Ngữ Văn trường Đại học sư phạm Hà Nội (GS.TS Vũ Anh Tuấn chủ biên) do Nxb Giáo Dục Việt Nam xuất bản, chúng tôi đã tham khảo kỹ lưỡng vấn đề đặc trưng văn học dân gian từ tất cả các bộ Giáo trình văn học dân gian trước nay để đi đến sự nhất trí về nội dung này theo trình tự bốn tính chất đặc thù bao gồm: Tính nguyên hợp; tính truyền miệng; tính tập thể; tính dị bản. Trong đó, chúng tôi quan niệm tính nguyên hợp chính là đặc trưng cơ bản và có vị trí xuyên suốt tiến trình phát triển lịch sử các thể loại của mọi nền văn chương truyền miệng như đã nói ở trên. Thật vậy, những thành tựu mới của khoa học văn học dân gian trong sự so sánh với văn học viết trên cả hai phương diện bản chất xã hội và bản chất nghệ thuật đã khẳng định về bản chất văn học dân gian vừa là văn học vừa là văn hóa. Một mặt, từ lý thuyết văn bản học và thi pháp học văn học dân gian cho thấy văn học dân gian là một loại của nghệ thuật ngôn từ. Có thể nói các thể loại văn học dân gian hoàn chỉnh như cổ tích, ca dao và truyện thơ dân gian hiển nhiên mang đặc trưng văn học ở dạng tồn tại cố định. Mặt khác, từ lý thuyết folklore học lại cho thấy văn học dân gian còn là một thành tố của văn nghệ dân gian, là một hiện tượng đặc biệt của văn hóa dân gian được sáng tạo một cách thẩm mỹ, mang thuộc tính văn hóa, có các biểu hiện giá trị văn hóa. Khi tìm hiểu các thể loại sử thi, thần thoại, truyền thuyết, tục ngữ, câu đố, vè... rõ ràng thấy cái lý của sự tồn tại và phát triển của nó chủ yếu không phải từ lý do nghệ thuật mà từ lý do xã hội, chức năng chủ yếu của nó không phải chức năng thẩm mỹ mà là chức năng sinh hoạt thực hành xã hội. Thuộc tính đa chức năng, đa yếu tố (văn học và phi văn học) nổi bật trong thần thoại ở đầu nguồn văn hóa dân gian và trong chèo truyền thống ở đỉnh cao của nền văn nghệ dân gian Việt Nam là minh chứng hết sức tiêu biểu cho đặc trưng nguyên hợp của văn học dân gian. Để nhận thức đúng đắn và sâu sắc đặc trưng bao trùm này của văn học dân gian, phải xét từ đầu nguồn: Văn học dân gian của thời kỳ thị tộc, bộ lạc hay còn gọi là văn học dân gian của quá trình thứ nhất, trong góc nhìn thể loại, nó có tính chất phổ quát loại hình. Trong cấp độ này, có thể nhận ra rất rõ đặc trưng nguyên hợp của thể loại thần thoại. Sự ra đời của thần thoại có nguồn gốc sâu xa từ nhu cầu sinh tồn của con người trong hình thái kinh tế xã hội nguyên thủy. Có nhu cầu tất nảy sinh phát kiến và chính các sáng tạo vô thức thần thoại đã mở đầu cơn khát nhận thức muôn thuở có tính nhân loại. Trong tồn tại mong manh đối diện với tự nhiên, con người thời đại thần thoại từng bước tự nhận thức và đối thoại với tự nhiên một cách tự phát. Kết quả thần thoại là nhân hóa tự nhiên để giải thích thế giới, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan được biểu hiện trong cảm hứng sùng bái và khát khao chinh phục. Nhưng thần thoại không chỉ là sự phỏng đoán bằng trí tuệ mù mờ thấp kém, thần thoại còn là sự hình dung và biểu hiện thế giới bằng hình tượng, là sự trình bày hồn nhiên tự phát niềm tin và khát vọng có tính nhân bản. Cái kỳ vĩ vô tư của thế giới các thần trong thần thoại đích thực tự nó được người đời sau cảm nhận ra trong những vẻ đẹp không thể bắt chước. Đó chính là cái nên thơ nguyên sơ thần thoại, là nghệ thuật nguyên thủy, là tôn giáo sơ khai, là văn hóa buổi đầu. Trong lòng nó chứa đựng vô số những tiền đề của nghệ thuật đời sau, của sử thi thần thoại, của truyền thuyết anh hùng, của cổ tích thần kỳ và thơ ca nghi lễ. Thần thoại là sản phẩm nghệ thuật được sáng tạo không tự giác bởi một “nhận thức nguyên hợp”. Giáo sư Đinh Gia Khánh đã khẳng định: Trong quá trình không ngừng tác động vào ngoại giới của thực tiễn sáng tạo văn hóa, con người ngày càng có nhận thức ở những bậc cao hơn, về môi trường về thế giới nói chung và xã hội. Cùng với quá trình ấy, lý tính ngày càng phát triển. Và hoạt động lí tính gắn với thực tiễn ấy cũng trải qua các chặng đường từ nguyên hợp (syncrétique) đến phân tích (analytique) rồi đến tổng hợp (synthotyque). Những nhận thức trải nghiệm phân tích và tổng hợp của con người tất nhiên sẽ phản ánh vào văn học dân gian trong quá trình thứ hai. Đó là các thể loại văn học dân gian của thời kỳ dân tộc trưởng thành cùng với sự xuất hiện gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước. Như một quy luật, trong quá trình tự ngã nhận thức về con người, văn hóa dân gian nảy sinh thần thoại. Trong quá trình tự ngã nhận thức về tộc người và cộng đồng dân tộc, văn hóa dân gian nảy sinh sử thi và truyền thuyết anh hùng, trong quá trình tự ngã nhận thức về thân phận con người, văn hóa dân gian nảy sinh cổ tích, ca dao. Nhưng cổ tích là chuyện của ước mơ muôn thuở được hư cấu không định lượng, ca dao là tình người vĩnh cửu được dệt thêu không định danh, còn đời sống thì không ngừng vận động ngày càng phức tạp và đa dạng trên cả hai chiều chính tà thiện ác đan xen giữa những mảnh đời tối sáng. Vấn đề thân phận cá nhân được văn học viết định danh, định lượng, định tính trong các điển hình mang đậm cá tính sáng tạo nghệ sĩ và đến với công chúng thông qua sinh hoạt văn hóa đọc. Nhưng văn hóa đọc không giành cho các tầng lớp bình dân. Đời sống văn hóa dân gian vẫn diễn ra bền bỉ và sôi động trong các hoạt động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp. Thế giới nghệ thuật cổ tích chỉ thật sự đẹp lung linh trong ngữ cảnh văn hóa kể. Thế giới nghệ thuật ca dao chỉ thật sự động lòng người trong ngữ cảnh văn hóa hát. Câu ca dao “Yêu nhau đứng ở đằng xa, con mắt liếc lại bằng ba đứng gần” chỉ thật sự được cảm nhận trọn vẹn cái hay, cái đẹp trong con mắt biết đưa tình với ai của người diễn xướng. Sự ra đời và hoàn thiện của thể loại chèo truyền thống nói riêng và loại hình kịch hát dân tộc nói chung cũng như sự xuất hiện thể loại truyện thơ trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật dân gian miền núi là các minh chứng, rằng: Những hoạt động sáng tác dân gian trong sự trải nghiệm phân tích và tổng hợp của nhân dân trong suốt thời kỳ chế độ phong kiến song hành cùng văn học viết không phá vỡ được tính nguyên hợp của văn học dân gian. Hơn thế, khảo cứu văn học dân gian được sáng tác trong quá trình thứ hai, trải qua các thời đại đã có ngôn ngữ viết phát triển đa phong cách, vẫn nhận ra đặc trưng nguyên hợp của văn học dân gian trong quá trình vận động lưu chuyển biến đổi phức tạp và hết sức đa dạng. Đặc trưng nguyên hợp trong thần thoại, sử thi cổ sơ và các thể tài thơ ca nghi lễ cổ mới chỉ là một sự tổng hợp tự nhiên các chức năng tư tưởng hệ và văn hóa khác nhau trong sự đan lồng các hình thức lao động xã hội, sự kết dính hoạt động thực tiễn và sáng tạo nghệ thuật, phản ánh tồn tại phôn-clo ngôn từ cổ sơ mới chính là sự giao tiếp có tính nghệ thuật trong một nhóm xã hội có giới hạn. Tìm hiểu đặc trưng nguyên hợp trong các thể loại tục ngữ, truyền thuyết, truyện cổ tích và những bài ca trữ tình dân gian, còn phải xem xét nó trong tất cả các mối quan hệ giữa các thành tựu thẩm mỹ của những thế hệ ở những thời đại khác nhau và giữa những địa phương khác nhau, quan hệ giữa các thành tố nghệ thuật đã từng được phân xuất nay lại có cơ hội được thu hút vào một tác phẩm mới trong quá trình sáng tạo nghệ thuật hình thành một thể loại mới... Thế nên folklore nghệ thuật ngôn từ được sáng tạo và hoàn thiện trong quá trình song hành với văn học viết vẫn có sự khác biệt cơ bản về nguyên tắc thẩm mĩ và là một hệ thống thẩm mỹ độc lập với văn học viết. Nó vẫn là một chỉnh thể nguyên hợp bao gồm tất cả các thể loại sáng tác truyền miệng mang tính biểu đạt theo lối cổ truyền, tồn tại trong diễn xướng và được sự thừa nhận của nhân dân trong quá trình “chọn lọc tập thể”, sống trong ký ức của cả cộng đồng và trở thành kỷ niệm riêng của cả một dân tộc. Nhận thức được đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc đặc trưng nguyên hợp của văn học dân gian trong tất cả các biểu hiện của văn học dân gian giữa đời sống từ hoạt động sáng tác, hoạt động trình diễn đến hoạt động tiếp nhận là một yêu cầu có tính nguyên tắc đối với mọi lĩnh vực nghiên cứu của khoa văn học dân gian. Có thể minh chứng quan điểm trên qua việc phân tích đặc trưng một thể loại đặc biệt. Đó là thần thoại, một thể loại mà từ trong chỉnh thể nguyên hợp của nó đã chứa đầy những yếu tố tiền đề nguyên thủy của các nghệ thuật đời sau.
2.Thể loại thần thoại là một chỉnh thể nguyên hợp điển hình
Thần thoại là thể loại điển hình tiêu biểu nhất về đặc trưng nguyên hợp của văn học dân gian, là minh chứng từ cội nguồn sáng tạo văn học dân gian khẳng định: Văn học dân gian vừa là văn học vừa là văn hóa theo nghĩa tổng quan nhất của khái niệm. Các thành tựu khảo sát và nghiên cứu của khoa thần thoại học từ giữa thế kỉ XIX đã phát hiện ra bản chất, những quy luật vận động và phát triển của thần thoại thế giới, từ đó khẳng định trước khi là một thể loại văn học dân gian, hệ thống thần thoại đã được quan niệm là văn hóa nguyên thủy. Giữa thế kỷ XX, lại có khuynh hướng đặt lại vấn đề: Những tác phẩm thần thoại có trước, theo đó các yếu tố tín ngưỡng, phong tục, tập quán và nói chung là lối sống mới từ đó hình thành. Cho đến thời điểm hiện tại, những cuộc tranh luận như thế vẫn không có hồi kết. Thực tế đó đã khẳng định tính tổng hợp tự nhiên của thần thoại. Ngày nay chúng ta đều nhận thức được hai quy luật chi phối quá trình hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Thứ nhất, đó là sự chế định của hoàn cảnh xã hộI - lịch sử từ đó một hiện tượng nghệ thuật sinh thành. Thứ hai, đó là sự chi phối của những quy luật đặc thù trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Thần thoại ra đời, phát triển và tan rã trọn vẹn trong lòng hình thái kinh tế xã hội nguyên thủy, sự đan lồng kết dính một cách tự nhiên và nguyên sơ giữa văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong cùng một hiện tượng nghệ thuật nguyên thủy là một thuộc tính tự nhiên. Trong đó cái ích dụng và cái thẩm mỹ ở những sản phẩm văn hóa “chất lượng cao” trong thời đại thần thoại là một phẩm chất đặc thù. Đó cũng chính là sản phẩm của quá trình hoạt động chưa tách rời giữa ý thức xã hội và lao động xã hội. Tính nguyên hợp của thần thoại còn đặc trưng bởi một nhận thức có tính tổng hợp tự nhiên mà kết quả là trong các hình thái ý thức xã hội đặc thù thần thoại chứa đựng rất nhiều yếu tố: triết học, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, nhân học... ở trạng thái sơ khai. Thế nên có thể nói trong cấu trúc thần thoại đã tràn đầy những yếu tố tiền đề nguyên thủy của các loại hình nghệ thuật đời sau. Tất nhiên, ở thời kì đầu tiên, đó chỉ là những yếu tố rời rạc được thu nhận tự phát trong quá trình con người tác động để khai thác tự nhiên. Song, đó cũng không phải là những giá trị đã được giới hạn nhất thành bất biến. Trong quá trình lưu chuyển bởi nhu cầu thích nghi và ứng phó với hoàn cảnh và nhu cầu giao tiếp để từng bước kiến tạo một thực tại trật tự hài hòa có ý nghĩa tích cực cho chính cuộc sống con người, tư duy con người cũng tiến hóa từng bước đáp ứng niềm mong mỏi vượt thoát lên trên hoàn cảnh, chế ngự hoàn cảnh. Trong quá trình đó, con người thuở ấy tự nhiên đã có thần thoại đồng hành. Đó cũng chính là minh chứng đầu tiên về con người trong quá trình sáng tạo văn hóa luôn luôn vừa ở tư cách chủ thể vừa là kẻ mang chứa, biểu hiện và hưởng thụ ngay cái giá trị do chính mình sáng tạo. Khi tư duy suy nguyên trong cảm quan nhị phân- lưỡng hợp hình thành cũng là thời điểm thần thoại sáng tạo xuất hiện với những cặp đôi có tính biểu tượng . Toàn cảnh thế giới được hình dung thành vũ trụ phân tầng trong đó nhân sinh trú ngụ. Trí tưởng tượng trong cảm thức sáng tạo thêu dệt từ chính thực tại thế tục đã cấu thành một thực tại thiêng liêng bởi một thế giới quan sùng bái tự nhiên. Thần thoại trong vũ trụ của lời nói, lời kể của người đặt truyện nhuần thấm tính thiêng trong tâm thức chủ nhân thần thoại đã tham gia một cách tự nhiên vào các sinh hoạt lễ thức và tập tục, các hoạt động lao động và buông xả, các hình thức giải trí và hóa trang, những lời cầu nguyện và câu phù chú cùng các bài ca nghi lễ... tạo nên một phức thể yếu tố hợp thành. Kết quả là trong suốt thời đại thần thoại, với tư cách một thể loại văn học dân gian - thể loại folklore nghệ thuật ngôn từ đầu tiên và không tự giác của nhân loại - thần thoại ra đời, tồn tại và phát triển như một chỉnh thể nguyên hợp điển hình.
Đặc trưng nguyên hợp của thần thoại là hệ quả của một trình độ tư duy đặc trưng của con người trong tư cách chủ thể sáng tạo văn hóa nguyên thủy. Dạng thức tư duy này được người đời sau định danh là tư duy thần thoại. Thế nên có thể nói trong những đặc điểm biểu hiện bản chất thể loại này, không thể không nhắc đến đặc trưng tư duy thần thoại. Bàn về đặc trưng này, trước nay đã có rất nhiều ý kiến trình bày luận giải với những lý thuyết đa chiều, khi nhấn mạnh vào khía cạnh duy tâm chủ quan huyền bí, lại có khi khai thác một cách thực chứng trên các dấu hiệu tàn dư thần thoại trong các mối quan hệ folklore với thực tại nhờ các khoa học liên ngành để khẳng định thuộc tính duy vật tự phát- một trình độ tư duy nhận thức khoa học. Tựu chung lại, đó là một kiểu tư duy tổng thể, một mặt phản ánh quan niệm “vạn vật hữu linh” như đã nói ở trên qua ý kiến của Trecnưsepxki, một quan điểm có tính phổ quát và tự nhiên trong vô thức tập thể nguyên thủy, mặt khác nó cũng phản ánh một kiểu nhận thức thực tại còn rất nhiều sai lệch, huyễn hoặc và điều này là có thật. Đúng như Ăngghen đã từng khẳng định: Cơ sở của mọi sự nhận định sai lầm ấy về giới tự nhiên, về những thế lực mầu nhiệm v.v... thường thường chỉ là một yếu tố tiêu cực mà thôi; tức là trình độ kinh tế thấp kém của thời kì tiền sử thì đẻ ra những nhận định sai lầm về thiên nhiên. Có một điều cần phải nhấn mạnh ở đây là cái năng lực tư duy tổng thể nói trên trong quá trình hoạt động sáng tạo thần thoại cũng không ngừng vận động và biến đổi theo quy luật từ hỗn mang, hỗn độn đến trật tự hài hòa ở những dạng thức khởi nguyên, trong mối quan hệ hai chiều giữa con người và thế giới tự nhiên, được biểu đạt bằng các hình thức siêu nhiên. Từ những nhận thức ở cách thức nhân hóa tự nhiên để giải thích thế giới một cách tự phát, con người thời đại thần thoại đời sau lại sử dụng chính cái kết quả do họ sáng tạo ra để nhận thức về một thế giới phức tạp và đa dạng hơn, trong đó có chính bản thân con người của xã hội buổi đầu tham gia vào quá trình sáng tạo mới. Tư duy suy nguyên thần thoại với sự tham gia của trí tưởng tượng hoang đường thời kì đầu tiên đã chắp cánh cho những giấc mơ thần thoại đời sau trở nên tràn đầy khát vọng trẻ thơ về một thực tại phong phú hơn, dịu dàng hơn và đẹp đẽ hơn. Kết quả là với thế giới thần thoại do chính con người sáng tạo, lần đầu tiên loài người đã có một thực tại thiêng liêng, trong đó bên cạnh thế giới của những anh hùng thần linh còn có một thế giới khác. Đó là thế giới của những con người cổ đại mang sức mạnh của thần linh, được sáng tạo trong niềm ngưỡng mộ thành kính thiêng liêng, tạo nên cái giá trị đặc biệt của đời sống văn hóa tâm linh của con người sẽ còn mãi về sau. Đó cũng chính là điểm thăng hoa của tư duy thần thoại, tạo nên phẩm chất lãng mạn thần thoại “không thể bắt chước”. Thế nên nếu có thể khẳng định thần thoại là một thể loại nghệ thuật tự sự bằng lời nói và là thể loại văn học dân gian đầu tiên, không tự giác thì không thể không nhấn mạnh nét đặc trưng có một không hai của dạng thức tư duy tình cảm thẩm mỹ này. Trong đó có sự đan lồng kết dính một cách tự nhiên giữa sự hoang đường hư ảo bởi nhận thức sai lệch thực tại với khát vọng bay bổng thần kỳ trong giấc mơ chinh phục tự nhiên và sáng tạo những kì tích văn hóa buổi đầu của con người thời tiền sử, tạo nên đặc trưng của một dạng thức tư duy mà người đời sau gọi là tư duy huyền thoại. Tìm hiểu đặc trưng thần thoại, có thể còn chỉ ra những đặc điểm khác trong bản chất và quá trình vận động phát triển của nó như: đặc trưng về hoàn cảnh phát sinh, đặc trưng về chức năng sinh hoạt thực hành tinh thần, đặc trưng về thi pháp “không hoàn chỉnh”, nhưng như trên đã nói: Tính nguyên hợp điển hình và tính lãng mạn trong tư duy phức thể huyền thoại mới là những đặc trưng cơ bản.
KẾT LUẬN
Chúng ta có thể nêu những ví dụ minh chứng cho quan điểm trên từ việc phân tích và tổng hợp các phương diện giá trị khác nhau trên các tài liệu văn học dân gian thuộc về các thể loại khác. Trong đó, bên cạnh những bài báo khoa học, những công trình nghiên cứu theo các đề tài dự án, những tác phẩm chuyên khảo... của các nhà khoa học đã thành danh, còn có đóng góp của hàng trăm luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn chuyên ngành văn học và văn hóa dân gian, hàng chục luận án tiến sĩ chuyên ngành văn học dân gian đã được bảo vệ thành công trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI như tôi được biết. Nhiều luận văn, luận án đã được xuất bản thành các sách chuyên khảo, chuyên luận, sách tham khảo có giá trị phổ biến trong học giới. Và tất nhiên, trước khi xuất hiện các công trình trên, hàng loạt bài báo khoa học được viết về từng vấn đề cụ thể khác nhau từ góc độ tính nguyên hợp của văn học dân gian có tính chỉ dẫn đã được công bố trên các tạp chí Nghiên cứu văn hóa dân gian, Nguồn sáng dân gian, Nghiên cứu văn học... và trên các Tạp chí khoa học của các trường Đại học, các Trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. Đó là kết quả định hướng các nghiên cứu văn học dân gian từ một hệ quy chiếu mới: Nghiên cứu văn học trong văn hóa, nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa mà ở đây là mối quan hệ nội tại giữa văn học dân gian như là một loại của nghệ thuật ngôn từ với văn hóa dân gian được tiếp cận từ góc độ thẩm mỹ, như là một hiện tượng/quá trình hoạt động sinh hoạt văn nghệ tổng hợp của nhân dân trên cả hai bình diện cấu trúc và lịch sử. Những thành tựu trên đã từng bước khẳng định khoa học văn học dân gian với tư cách là một khoa học độc lập nhưng không đối lập với khoa học văn học theo nghĩa chặt chẽ của cả hai khái niệm. Chúng tôi cho rằng bước đột phá này trong khoa học văn học dân gian Việt nam có lý do từ một tư tưởng học thuật quan trọng, mà cái tư tưởng ấy được hàm chứa chỉ trong một khái niệm gốc: Khái niệm “tính nguyên hợp” của folklore của Giáo sư Đinh Gia Khánh./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhiều tác giả: Văn hóa dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb KHXH, H.1989
2. Nhiều tác giả: Văn hóa dân gian những phương pháp nghiên cứu, Nxb KHXH, H.1990
3. Ngô Đức Thịnh, Fran Proschan (Chủ biên): Folklore thế giới – một số công trình nghiên cứu cơ bản, Nxb KHXH, H.2005
Nguồn: Bài đã đăng trong Tạp chí Nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Tạp chí chuyên ngành Viện nghiên cứu Văn hóa Viện HLKHXHVN, Số 3 (189) - 2020 ISSN 0866 -7284 và Kỷ yếu HTKHQG “Ngôn ngữ và văn hóa vùng Tây Bắc”, Nxb ĐHSP, 2014; Sách Giáo sư Đinh Gia Khánh Nhà giáo - Nhà khoa học tiên phong, Viện Văn học, Nxb Thanh Niên, H.2014./.