Văn học Việt Nam trung đại

Cống người vàng thế thân: Từ sử liệu chính thống đến truyền thuyết dân gian (phần 2)


10-10-2020

Nghiên cứu hiện tượng “cống người vàng thế thân” từ sử liệu chính thống đến truyền thuyết dân gian, chúng tôi không hoàn toàn nhằm đến việc truy tìm sự thật, sử thật hay chân lý bởi qua các văn bản, các diễn ngôn của các chủ thể khác nhau rất khó có thể đi đến tận cùng của chúng (nếu có thì may ra cũng chỉ là tiệm cận mà thôi). Các văn bản, diễn ngôn này bị chi phối bởi rất nhiều điều kiện, ý hệ, quyền lực và tri thức khác nhau và vì vậy sẽ rất khác nhau. Chúng tôi cũng không có tham vọng truy nguyên nguồn gốc của chúng mà chỉ mong muốn đi tìm các “duyên cớ” mà chúng tồn tại, được thể hiện và phát huy tác dụng trong một giai đoạn hay một thời kỳ lịch sử nhất định...

2. “Cống người vàng” đi vào truyền thuyết: một cách nhìn của dân gian

2.1. Niên đại muộn của việc “cống người vàng”

            Do việc sử liệu Việt khá ít đề cập đến việc cống người vàng thời Trần (thế kỉ XIII), thậm chí ít đề cập đến cả yêu sách cống người vàng của nhà Nguyên (chi tiết cống người vàng thời Hậu Trần được ghi rõ trong chính sử dường như bị chìm đi đến nỗi ngay cả ở thời hiện đại, người ta cũng ít chú ý đến hoặc vô tình/ hữu ý bỏ qua nó trong các tài liệu về hiện tượng cống người vàng), thậm chí phủ nhận chuyện này (tờ Bẩm Phúc đại nhân), nên trong dân gian tồn tại quan niệm rằng, việc cống người vàng xuất hiện từ thời Lê (thế kỉ XV) và gắn bó chặt chẽ với quan niệm “đền mạng Liễu Thăng”. Cũng có thể do mật độ cống người vàng thời Lê Lợi khá dày (1427, 1428, 1434) nên ấn tượng về việc cống người vàng thời Lê rất đậm nét trong kí ức dân chúng đến độ trở thành xác tín(63). Mãi đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, niên đại Trần mới được đề cập đến. Sớm nhất có lẽ là từ soạn giả sách Cổ kim giao thiệp sự nghi thông khảo (cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX). Tiếp đến, tác giả Đinh Lệnh Uy 丁 令 威 (1925) có lẽ cũng chủ yếu căn cứ vào một dị bản của tờ Bẩm Phúc đại nhân(64) mới đặt vấn đề việc cống người vàng có từ thời Trần và người vàng là để “thay thế Quốc vương”(65). Tác giả Thạch Bổ Thiên “lấy tài liệu ở một bài khảo cứu bằng chữ Hán trong Tạp chí Nam Phong” (tức bài của Đinh Lệnh Uy) cũng có quan niệm tượng tự(66). Nhưng quan niệm của các ông nhanh chóng bị quan niệm của các học giả viết sách bằng chữ quốc ngữ có “uy thế” như Trần Trọng Kim(67) hay Hoa Bằng(68) lấn át. Điều đó còn phản ánh niềm tin dai dẳng của dân gian Việt Nam về một sự muộn màng của việc tiến cống này và điều đó cũng thể hiện ý thức dân tộc rất cao của dân gian, đặc biệt là thiện cảm của dân gian đối với triều đại nhà Trần. Hãy tham khảo lập luận của một nhà nghiên cứu danh tiếng - Hoa Bằng để thấy ông phản bác Đinh Lệnh Uy, Thạch Bổ Thiên bằng cách phủ nhận việc nhà Trần có cống người vàng như thế nào: “Nhà Trần từ đời Thái Tông đến Minh Tông (1225 - 1320) thật là thời kì hùng cường oanh liệt. Có nhiều phương diện, nhất là về mặt võ bị, in lại lắm nét vẻ vang rực rỡ trên trang lịch sử Việt Nam (…) Cứ lấy tâm lí mà xét: Về phần nhà Nguyên, thấy mình đã bại trận nhiều lần và bị coi khinh như vậy, chắc họ chỉ muốn làm hoà cho êm chuyện, quyết không còn dám làm khó dễ trong cuộc ngoại giao với Trần nữa. Còn ta? Biết mình đứng trên địa vị nước nhỏ, không muốn lôi thôi mãi với họ, nên dẫu mình có chiến thắng nhiều phen cũng muốn trang trải thân thiện với họ để nhân dân được yên nghỉ khỏi phải đẫm máu ở nơi chiến trường. Nhưng ta đã nắm phần thắng lợi trong tay thì, về việc ngoại giao, cũng có thể rộng miệng cả tiếng chứ không sợ sệt nỗi gì. Như vậy, nay chúng ta có thể phán đoán chắc chắn: Bây giờ Nguyên quyết không dám bắt Trần phải cống người vàng; mà Trần cũng quyết không khi nào chịu làm một việc cơ nhục đến quốc thể như vậy, mặc dầu Mông Cổ có lòng tham lam”(69). Hoa Bằng căn cứ vào những ghi chép trong Bang giao chí 邦 交 志 (phần “Nghi lễ sách phong”) của Phan Huy Chú để khẳng định việc đó(70). Truy ngược lại tài liệu gốc, ta thấy Bang giao chí viết: “Các vua nhà Trần, khi được nhường ngôi không hề cầu nước Tàu phong cho bao giờ. Khi vua Nhân Tông (1279 - 1293) lên ngôi, nhà Nguyên có sai sứ sang trách là không xin phép mà tự lập, dụ bảo nhà vua vào chầu; nhưng vua Nhân Tông không chịu. Cho nên Nguyên Tổ (Thế Tổ nhà Nguyên 1279 - 1294) chứa đầy tức giận, nghĩ muốn gây chuyện. Năm ấy (niên hiệu Trùng Hưng thứ hai, 1286), muốn đưa Trần Ích Tắc về, nhưng không xong, bèn đem binh sang xâm nước Nam, rút cục chỉ chác lấy sự bại trận. Từ đó, suốt đời nhà Trần dẫu thường có xính sứ (sứ giả đưa đồ cống xính) đi lại, nhưng đến cái lễ sách phong thì không làm nữa” (Hoa Bằng dịch)(71). Như vậy là Hoa Bằng đọc được trong sự ghi chép của Phan Huy Chú ngầm ý thời Trần không hề có việc cống người vàng từ đó đi đến khẳng định quan niệm của mình. Nhưng điều đó cũng thiếu cơ sở vì giữa việc xin phong với việc cống người vàng không đồng nhất với nhau. Vả lại, như sẽ thấy, ngay quan niệm của Phan Huy Chú cũng lại là một sự tiếp nhận dựa trên tinh thần dân tộc đậm màu sắc dân gian và cần phải được lí giải nhiều lúc, nhiều nơi một cách linh hoạt.

2.2.  Thuyết “đền mạng” tướng giặc bị giết

            Thuyết đền mạng tướng giặc có lẽ xuất hiện sớm nhất trong tờ Bẩm Phúc đại nhân. Trong tờ bẩm, tác giả có viết: “Kịp đến khi nhà Tiền Lê lên thay nắm việc nước, lại có cái vạ Liễu Thăng, phải hiến người vàng chuộc tội” hoặc “Trái lại cũng chung một duộc như […] nhà Lê giết Liễu Thăng hay sao?”(72). Ngoài ra, việc trong tờ bẩm có nói đến việc “nhà Trần giết Ô Mã Nhi” cũng đã gây nên sự hiểu nhầm rằng tác giả thừa nhận việc cống người vàng thời Trần và việc cống này là để đền mạng Ô Mã Nhi. Điều đó là không đúng bởi thuyết “đền mạng Ô Mã Nhi” rất hiếm gặp trong các truyền thuyết dân gian, nó chỉ được nói đến trong bài nghiên cứu của một vài học giả hiện đại, trong đó không loại trừ cả học giả Trung Quốc (như Trần Văn Nguyên). Thực chất, tác giả tờ bẩm không hề cho rằng thời Trần có việc cống người vàng (mà chỉ nhắc đến nguồn gốc yêu sách cống người vàng có từ thời Nguyên do nhà Trần đã “đắc tội” với phương Bắc).

Sau đó có hàng loạt các ghi chép của tư nhân và dân gian đã phát triển quan điểm “đền mạng tướng giặc bị giết” trở thành một thuyết rất phổ biến.

            Sớm nhất có lẽ là truyện Nguyễn Công Hãng trong Tang thương ngẫu lục 桑 滄 偶 錄 (cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX) của Phạm Đình Hổ 范 廷 琥 (1768 - 1839) và Nguyễn Án 阮 案 (1770 - 1815). Truyện kể như sau: “Nguyên xưa, đức Thái tổ Hoàng đế (Lê Lợi) cùng quân Minh đánh nhau ở núi Mã Yên chém chết tướng Minh là An Viễn hầu Liễu Thăng. Đến khi giảng hòa nộp cống, người Minh bắt đền, phải đúc người vàng thay thế. Hồi nhà Mạc cướp ngôi. Minh sai Cừu Loan, Lưu Bá Ôn sang đánh. Mạc sợ, phải đúc người vàng đút lót cầu hòa. Đầu đời Trung hưng, nhà Minh lấy cớ nhà Lê tự tiện giết công thần của họ là Mạc Mậu Hợp, bắt phải đúc người vàng tạ lỗi, từ đấy thành thường lệ”(73).

Tài liệu gần như đồng thời với Tang thương ngẫu lục là Sách sổ sang chép các việc (viết khoảng năm 1820-1830) viết bằng chữ quốc ngữ của Phi-li-pê Bỉnh (1759 - 1830) cũng đề cập đến với một sự tuỳ tiện, lỏng lẻo hơn: “khi vua Ðinh Thiên Hoàng (!) giết được Liễu Thăng mà lên trị  (...) Tha vụ Liễu Thăng cho nước Anam thì bởi vì Thầy Dòng ÐCJ tâu xin, chẳng phải là ông Thượng Chắy (?) làm được việc ấy đâu”(74). Việc một người dân Công giáo như Phi-li-pê Bỉnh viết chuyện này vào sách quốc ngữ của mình [mà cũng chưa được chuẩn về những kiến thức lịch sử phổ thông như nhầm Lê Lợi ra Đinh Thiên Hoàng,v.v…] chứng tỏ thuyết “đền mạng Liễu Thăng” đã rất phổ biến đương thời.

Ngay trong một công trình mang tính học thuật như Loại chí (Bang giao chí), nhà khoa học Phan Huy Chú vẫn bị chi phối bởi thuyết “đền mạng”. Ông viết một cách rất chắc chắn theo văn phong khoa học rằng: “Xét: thời Lê sơ thông hiếu với Trung Quốc, có người vàng thay mình để đền mạng Liễu Thăng, nhà Minh định làm cống phẩm”(75). Khẳng định này đã có tác động không nhỏ đến quan niệm của người đời sau, không chỉ trong dân gian mà còn trong giới học thuật bởi lẽ, khi nghiên cứu quan hệ bang giao Việt - Trung, ngoài các bộ chính sử thì một tài liệu thường được dẫn dụng chính là Bang giao chí.

Đầu thế kỉ XX (1920), học giả Trần Trọng Kim soạn Việt Nam sử lược lại góp phần phổ biến thuyết này vào học giới một cách hết sức rộng rãi. Ông phỏng đoán: “Có lẽ là lúc đánh trận Chi Lăng có giết mất hai tướng nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh, cho nên phải đúc hai người bằng vàng để thế mạng”(76). Nhà nghiên cứu Hoa Bằng, trong nhiều công trình nghiên cứu, cũng tán thành quan niệm này khi tuyên bố: “Đại thân kim nhân không phải là người vàng thay cho bản thân quốc vương”(77). Ông hùng hồn chứng minh sự phổ biến của thuyết “đền mạng” Liễu Thăng mà bác bỏ tất thảy những tư liệu cho thấy việc này đã được đặt ra từ trước.

            So với sử liệu chính thống của Trung Hoa và Việt Nam, rõ ràng ta thấy thuyết này không đứng vững về mặt logic bởi:

            - Việc cống người vàng đã có từ thời Trần (thế kỉ XIII), Hồ và Hậu Trần, và mục đích là để thay thế cho bản thân Quốc vương (như trong chiếu dụ của vua Nguyên và trong cách hiểu của các triều đại Việt Nam).

            - Việc Lê Lợi cống người vàng cho nhà Minh được chuẩn bị còn trước cả khi Liễu Thăng bị giết. Thậm chí, trong một bức thư Lê Lợi gửi Liễu Thăng trước khi họ Liễu mang quân cứu viện sang Đại Việt cũng đã có nói đến việc này.

            - Việc cống người vàng là do các triều đại Trung Quốc đòi hỏi trong những hoàn cảnh đặc biệt (thường là buổi đầu tạo dựng một triều đại mới ở Việt Nam như lời mở đầu tờ Bẩm Phúc đại nhân của nhà Tây Sơn có tường thuật lại).

            - Hình trạng người vàng được mô tả trong sử liệu Trung Hoa và Việt Nam cho thấy, nó không thể là hình dạng của những viên tướng như Liễu Thăng. Làm sao các triều đại Trung Hoa (như triều Minh) có thể chấp nhận điều đó.

            Tuy nhiên, thuyết này vẫn sống dai dẳng trong tâm thức dân gian trải vài thế kỉ qua. Ta đã thấy nó phổ biến thế nào ở thế kỉ XVIII-XIX. Hoa Bằng cho ta thấy sự phổ biến của thuyết này trong dân gian đầu thế kỉ XX: “Ở ngoài Bắc, từ già chí trẻ ai cũng nghe biết câu này: Nợ như nợ Liễu Thăng. Còn ở Nam và Trung kì, câu đó có phổ thông hay chăng, tôi không rõ. Một chuyện như chuyện nợ Liễu Thăng chắc là một cái nạn lớn đối với ta xưa, nên nó mới in sâu vào óc người mình và dễ truyền khắp dân gian như vậy. Chắc xưa, khi người Minh bắt cống người vàng, họ cũng lấy nê nói rằng các tướng Minh như Liễu Thăng đã phải chết vì tay người Nam thì nay chúng tôi muốn lấy số vàng này để gọi là đền bù cho gia quyến những tướng đã tử trận đó. Thế rồi lâu ngày thành quen: hễ ta đem cống người vàng thì nói là đền mạng Liễu Thăng; còn Tàu thì nói rằng lấy người vàng là bắt nợ về việc Liễu Thăng. Trải qua nhiều đời cho đến Lê Trung hưng, việc đó thành lệ thường cống. Rồi sử gia cứ chép là “người vàng thế thân” song không nói rõ là thế thân ai nữa”(78). Vũ Ngọc Khánh cũng cho thấy sự phổ biến thuyết này ở cuối thế kỉ XX vượt lên trên cả những sự hoài nghi khoa học: “Nợ Liễu Thăng! Cái nợ này không biết có công văn giấy tờ nào chứng thực hay không nhưng chắc chắn là điều có thực. Trước đây, các triều vua Đại Việt, đến kì cống nạp Trung Quốc, phải đúc người vàng đưa sang. Lời truyền văn cho biết, trong chiến thắng Lam Sơn, ta giết được Liễu Thăng, bọn phong kiến nhà Minh rất tức giận, bắt cống người vàng để đền bù, ta cũng chấp thuận. Dân gian gọi “nợ Liễu Thăng” là từ câu chuyện này. Hãy còn nhiều ý kiến khác giải thích việc cống người vàng. Có người cho rằng, khởi đầu là từ nhà Mạc. Mạc Đăng Dung cướp ngôi Lê, sợ nhà Minh gây chuyện, liền đúc người vàng đưa sang để đút lót, chịu tội (xem Tang thương ngẫu lục) (sic!). Lại có ý kiến cho rằng, thường lệ ngày xưa, vua các nước chư hầu phải thân hành sang chầu hoàng đế Trung Hoa. Nhưng vua Việt Nam thì không một ai chịu đi cả. Không đi, thì đúc người vàng để thay mình! Không rõ cách giải thích nào là chính xác?” [Những ai đòi xoá bỏ nợ Liễu Thăng?](79). Khảo sát trên mạng internet hiện nay, chúng ta cũng thấy một kết quả tương tự: đa số các bài trên mạng viết về “người vàng thế thân” đều khẳng định là để bồi thường mạng Liễu Thăng (và Lương Minh). Điều này cũng không khó lí giải đứng từ tâm lí dân tộc và tâm lí đám đông trong bối cảnh nhiễu loạn thông tin trên không gian ảo.

2.3.  Thuyết thay đổi hình trạng người vàng

            Thuyết này có lẽ cũng xuất hiện sớm nhất trong Bẩm Phúc đại nhân mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Hẳn tờ Bẩm Phúc đại nhân lấy cảm hứng, cứ liệu từ chính sự kiện nhà Lê Trung hưng có tranh biện với nhà Minh về hình trạng người vàng được ghi chép đâu đó (mà nhiều khả năng là từ sử liệu Trung Hoa). Có lẽ đây chính là một trong những cơ sở chính để người cháu ngoại của dòng họ Ngô Thì là Phan Huy Chú viết nên câu chuyện đi sứ khá nổi tiếng về Phùng Khắc Khoan. Trong phần Nhân vật chí sách Loại chí, Phan Huy Chú kể về chuyến đi sứ của cụ Trạng Bùng như sau: “Năm thứ 20 Đinh Dậu [1597], ông đương làm Tả thị lang bộ Công, được đi sứ Minh. Bấy giờ nhà Minh nhận hối lộ của con cháu nhà Mạc, không chịu nhận sứ. Ông lúc còn đợi mệnh [vua Minh], liền đưa thư cho Súy ty nhà Minh, kể rõ việc nhà Mạc cướp ngôi. [Lại nói bây giờ] con cháu nhà Lê tới cửa quan đợi mệnh, mà “thiên triều” lại giúp nhà Mạc đè nén nhà Lê, thế là về bè với kẻ gian tà, hại người ngay thẳng, lấy gì để tỏ đại nghĩa với thiên hạ, giúp danh giáo cho muôn đời sau. Người Minh khen là có nghĩa mới cho sứ thần qua cửa quan; ông mới được đến [Yên] Kinh. Khi đã đến Yên Kinh, Lễ bộ đường trách về việc người vàng ta đem cống không làm theo mẫu cũ làm cúi đầu, nên lại ngăn không cho sứ vào chầu. Ông cãi lại rằng: 'Nhà Mạc cướp ngôi, danh nghĩa là nghịch; nhà Lê khôi phục lại, danh nghĩa là thuận. Nhà Mạc dâng người vàng hình cúi đầu thay mình, đã là may lắm. Còn như đời Lê bao đời làm công thần: kiểu người vàng ngửa mặt, qui chế cũ còn đó. Nay lại bắt theo lệ nhà Mạc, thì lấy gì để khuyên việc chiêu an và trừng giới việc trách phạt được'. Việc đến tai vua Minh, cuối cùng lại cho theo thể thức cũ của nhà Lê trước. Bấy giờ ông mới được vào chầu, lĩnh ấn sắc mang về nước. Người Trung Quốc đều khen là sứ giỏi. Khi đã về, Thành Tổ [Trịnh Tùng] rất kính trọng, gọi là Phùng tiên sinh mà không gọi tên…”(80). Mặc dù có nhiều tư liệu trước và sau đó khi kể về Phùng Khắc Khoan (trong đó có nhiều giai thoại về chuyến đi sứ của ông) đều không hề nhắc đến chi tiết biện cãi người vàng(81), nhưng ngược lại, cũng có không ít tư liệu (đặc biệt là thơ) phản ánh sự lưu truyền rộng rãi của câu chuyện thú vị này. Chẳng hạn, Đốc học, Cát sĩ Trần Huy Tích (1828 - ?), từ câu chuyện này cất bút làm thơ ca ngợi Phùng Khắc Khoan như sau: “Vào yết kiến, biện chuyện người vàng, lời không chịu khuất/ Rời bệ ngọc, về nghỉ ngơi làm thơ, bút nên khen”(82). Tiến sĩ Lê Duy Trung (1795 - 1863) trong bài thơ ca tụng Phùng cũng có viết: “Hai tượng đá quỳ ở đây làm việc hầu hạ/ Chứ không phải là tượng người vàng [ngửa mặt] đem đến hội khám ở ải Nam quan”(83). Theo sử liệu chính thống, việc tranh biện về hình trạng người vàng nhà Lê Trung hưng tiến cống diễn ra ở Trấn Nam Quan chứ không đợi đến khi Phùng Khắc Khoan sang Minh mới xảy ra(84). Hình trạng người vàng đem sang Yên Kinh cũng không như Phan Huy Chú kể (dù ban đầu thì có giống). Nhưng những nội dung “na ná” và có những chi tiết đặc thù “gần giống” như vậy cho ta thấy rõ là Phan Huy Chú trực tiếp hoặc gián tiếp có tham khảo sử sách, đặc biệt là sử Trung Hoa (mà dấu ấn rõ nhất là từ tờ Bẩm Phúc đại nhân). Nhưng ông đã chắt lọc ở đó tinh thần ban đầu khá cứng cỏi, nguyện vọng thiết tha của triều Lê Trung hưng (trong đó có Phùng Khắc Khoan) gửi gắm trong hình trạng người vàng mà họ dự định tiến cống. Ở đây, thể tài “nhân vật chí” (một dạng “truyện danh nhân”, hàng trạng, chân dung văn hoá) cho phép ông có thể làm được như vậy.

Để hình dung quá trình hình thành câu chuyện Phùng Khắc Khoan được Phan Huy Chú kể, chúng ta có thể lập bảng đối chiếu hình trạng người vàng đem cống được ghi chép trong các tư liệu Trung - Việt như sau:

Thời

Sử sách Trung Hoa

Sử sách Việt Nam

Trần

Người vàng, mắt ngọc. Hình dạng không chép rõ (Nguyên sử,…)

Không ghi chép

Hồ

Không chép rõ

Không ghi chép

Hậu Trần

Không ghi chép

Không chép rõ

Lê sơ

- Tóc tai rũ rượi, tay trói quặt (Minh sử, Hịch Giao Nam quốc Lê Duy Đàm,…)

Ngửa mặt (Nhân vật chí)

Mạc

- Tóc tai rũ rượi, tay trói quặt (Minh sử,…)

- Tóc tai rũ rượi, trói quỳ, dâng biểu (Hịch Giao Nam quốc Lê Duy Đàm,…).

- Tóc tai rũ rượi, mặt bơ phờ, cúi mặt (Bẩm Phúc đại nhân)

- Cúi mặt (Nhân vật chí)

Lê Trung hưng

- Cúi mặt (Minh sử, Hịch Giao Nam quốc Lê Duy Đàm)

- Khắc chữ ở lưng (Minh sử) hoặc ở mặt (Hịch Giao Nam quốc Lê Duy Đàm,…)

- Ngửa mặt, mặc triều phục, đội triều quan (Bẩm Phúc đại nhân)

- Ngửa mặt (Nhân vật chí)

Như vậy, nếu không tra xét sử Trung Hoa, hẳn ta không thể hiểu rõ lai lịch, nguyên do dẫn đến câu chuyện về Phùng Khắc Khoan. Và do đó, trong rất nhiều tác phẩm, từ những bài thơ, câu chuyện cho đến những công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc về danh nhân này từ Loại chí trở đi, giai thoại người vàng ngửa mặt vẫn được nhắc đi nhắc lại với niềm tự hào và ca ngợi nhiệt thành (đặc biệt là ở thời hiện đại)(85). Hẳn uy tín của sử gia, “nhà bác học” của Phan Huy Chú đã trở thành “tấm vé bảo hiểm” cho những gì ông viết, trong đó có truyện về Trạng Bùng. Tuy nhiên, ở đây, ta cũng thấy rằng, giai thoại “người vàng ngửa mặt” đó cũng bảo lưu những hạt nhân lịch sử nhất định. Từ đó, ta càng tin rằng, không phải mọi giai thoại đều chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Và sự thực ở đây không chỉ có loại sự thật lịch sử, sự thật khách quan mà còn có loại sự thật tinh thần, sự thật chủ quan, đó là chủ nghĩa yêu nước nồng nàn của những công dân nước Việt được truyền từ vị sứ thần danh tiếng đến những người viết sử, viết truyện và kể cả những người nghiên cứu về ông. Thuyết sứ thần chấm dứt cống người vàng dưới đây cũng bảo chứng cho điều đó.

2.4.  Thuyết sứ thần chấm dứt cống người vàng

Không rõ từ bao giờ, người ta cho rằng việc cúng người vàng diễn ra liên tục. Tuy nhiên, việc này được đề cập đến sớm nhất có lẽ ở thế kỉ XVII qua những ghi chép của các giáo sĩ phương Tây. Trong bản Tường trình về Đàng Ngoài (1626)giáo sĩ Giuliano Baldinotti cho biết: “Vua xứ Đàng Ngoài (tức vua Lê - NTT) đứng đầu chín lãnh thổ, có ba quốc vương đến triều cống đó là vua xứ Lào, chúa Đàng Trong và vua Cao Bằng (!). Còn chính ngài thì phải triều cống Trung Quốc, mỗi năm cống ba tượng vàng và ba tượng bạc”(86). Giáo sĩ Antonio Francisco Cardim cũng có ghi chép tương tự sau đó không lâu (1644)(87). Việc các Giáo sĩ nắm được thông tin về việc cống người vàng (cho dù chưa thực sự chuẩn xác) cho thấy thông tin đó rất phổ biến đương thời (dưới dạng tin đồn). Đến thế kỉ XVIII-XIX, nó lại được đề cập khá nhiều trong những ghi chép của Ngô gia văn phái, Lê Thống, Phan Huy Chú. Tác giả tờ Bẩm Phúc đại nhân viết “Kịp đến giữa đời nhà Lê, việc hiến người vàng cũng đã bãi bỏ, rồi từ đó trở đi, lễ vật cống nạp hàng năm chỉ dùng vàng để chiết đã thành điển lệ cũ”(88). Lê Thống chép rằng năm 1433, sứ thần Đại Việt sang xin “giải lệ cống người vàng” (Bang giao lục) mà theo sử Trung Hoa, việc đó chỉ thực sự chấm dứt sau lần tiến cống người vàng năm 1434. Phan Huy Chú theo đó khẳng định “[…] Đến khoảng giữa mới đổi ra làm lư hương, bình hoa và vàng bạc, vẫn nặng bằng người vàng. Đến lễ cống của nhà Mạc đây, đại lược cũng theo như lệ cũ, mà các thứ đồ bạc, mâm bạc thì lại tăng thêm hơn trước”(89). Và đặc biệt, Phan Huy Chú còn khai triển suy đoán của mình như sau: “Khi mới Trung hưng không khỏi phải chịu nhũn mà tuân theo. Về sau nước ta lại biện cãi, nhà Minh không nói sao được, nên việc đó lại thôi(90). Quan niệm này tồn tại dai dẳng cho đến tận ngày nay. Chẳng hạn, đầu thế kỉ XX, học giả Trần Trọng Kim soạn Việt Nam sử lược 越 南 史 略 đã góp phần phổ biến thuyết này vào học giới một cách hết sức rộng rãi. Ông viết: “Trần Cảo chết rồi, Bình Định Vương lên ngôi vua (…) Vua Thái Tổ sai sứ sang cầu phong bên Tàu (…) Từ đấy [1428], lệ cứ 3 năm phải sang cống nhà Minh một lần, mà lần nào cũng phải đúc hai người bằng vàng gọi là “đại thân kim nhân”(91). Hoa Bằng cũng theo tư duy ấy mà suy luận rằng: “Cứ theo như bức thư của triều Quang Trung phản kháng nhà Thanh mà tôi trưng dẫn nguyên văn bằng chữ Hán dưới đây, thì việc cống người vàng là bắt đầu từ Trần (1225 - 1413) qua Lê (1428 - 1527) đến Mạc (1527 - 1592) và Lê Trung hưng (1533 - 1789). Nếu lịch sử “cống người vàng” quả đúng như trong bức thư ấy đã nói, thì ra trong vòng 564 năm đó, ta phải trĩu vai dưới một ách nặng rất bất công và è cổ góp một món nợ truyền tử nhược tôn không bao giờ hết”(92). Cũng từ đây nảy sinh thuyết sứ thần [thời Lê Trung hưng, Tây Sơn] biện cãi để chấm dứt lệ cống người vàng (mà câu của Phan Huy Chú là một chỉ dấu quan trọng). Theo Vũ Ngọc Khánh ghi nhận, công trạng đó được dân gian dành cho 3 nhân vật Chánh sứ: Giang Văn Minh, Nguyễn Công Hãng, Ngô Thì Nhậm(93). Theo khảo sát của chúng tôi, con số các sứ thần còn được mở rộng hơn thế, đó là: Ngô Trí Hòa 吳 智 和 (1565 - 1625), Giang Văn Minh 江 文 明 (1573 - 1638), Nguyễn Công Hãng 阮 公 沆 (1679 - 1732), Hà Tông Huân 何 宗 勲 (1697 - 1766), Ngô Thì Nhậm 吳 時 任 (1746 - 1803), Thầy ĐJC (!?),v.v…

Nguyễn Công Hãng và nhân vật được đề cập sớm nhất gắn với thuyết bác lệ cống người vàng. Về Nguyễn Công Hãng, tài liệu sớm nhất, chính thống nhất là Đại Việt sử kí tục biên 大 越 史 記 續 編 chép về việc đi sứ của ông rất ngắn ngủi, không có liên hệ gì đến việc cống người vàng(94). Những tư liệu khác (tương đối đáng tin cậy, chính thống) viết về Nguyễn Công Hãng như Lịch triều tạp kỉ 歷 朝 雜 紀, Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục 鼎 鍥 大 越 歷 朝 登 科 錄, Loại chí (Bang giao chí, Nhân vật chí)(95), Đại Nam nhất thống chí 大 南 ー 統 志,v.v… cũng không hề chép chi tiết đó. Tư liệu bang giao ghi nhận thời này nhà Thanh thậm chí còn đồng ý cống vật (lư hương, bình, chậu,…) có thể chiết thành đĩnh để tiến, vì vậy khó có chuyện Nguyễn Công Hãng biện bạch về người vàng(96). Văn bản đầu tiên chứa đựng thuyết này có lẽ là truyện Nguyễn Công Hãng trong Tang thương ngẫu lục. Truyện kể: “năm thứ 57 niên hiệu Khang Hy (1719) đời nhà Thanh, gặp kì đi cống, ông do chức Binh bộ Tả thị lang được sung làm Chánh sứ (…) Ông xin bãi bỏ lệ ấy. Các Bộ, Viện, đem chuyện cũ ra hỏi. Ông nói: Quốc vương tôi ngày nay giữ gìn nghiệp cũ, không dám bỏ việc tiến cống. Còn chuyện cũ về việc thâu thành nạp khoản thì sứ thần không dám biết. Họ lại hặc về chuyện Liễu Thăng. Ông nói: Liễu Thăng là tướng nhà Minh, Hoàng Thanh nay bao gồm muôn nước, lại khư khư đòi món của đút để trả mối thù của người xưa. Như vậy sao đủ để làm khuôn mẫu cho người sau”(97). Cũng theo truyện này, ông còn đòi bỏ việc cống nước Loa thành để rửa ngọc trai. Sách Lam Sơn thực lục tục biên 藍 山 實 錄 續 編 cũng phụ hoạ theo (đã dẫn). Việc Nguyễn Công Hãng dùng lí lẽ bác bỏ lệ cống người vàng cho thấy rõ sự thêm thắt, hư cấu theo trí tưởng tượng phong phú của dân gian nhưng cảm hứng chung là ca ngợi tài năng, công trạng của sứ thần trong đó nổi bật nhất là khả năng “chuyên đối”, “ứng đối” và làm tăng “quốc thể” (bằng việc dẹp bỏ một việc có tác hại đến quốc thể như việc phải cống người vàng). Câu chuyện rõ ràng phản ánh phản ứng của nhân dân trước yêu sách cống người vàng vô lí của Bắc triều trong lịch sử.

Giai thoại Giang Văn Minh bác lệ cống người vàng còn xuất hiện muộn hơn khá nhiều. Về Giang Văn Minh, Toàn thư chép rất ngắn ngủi về chuyến đi sứ của ông(98)Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, Loại chí (Bang giao chí, Nhân vật chí), Đại Nam nhất thống chí,… viết về ông cũng ngắn ngủi và sơ lược. Văn bia Thám hoa công truy trạng bi 探 花 公 追 狀 碑(99) (do Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 viết vào năm Kỷ Dậu niên hiệu Tự Đức thứ 2 - 1849) không hề có chi tiết bác việc cống người vàng, nhưng bắt đầu xuất hiện chi tiết họ Giang đối lại câu đối của Sùng Trinh và bị giếtBài Vinh Quận công Giang Thám hoa Văn chung tiên sinh hành trạng 榮 郡 公 江 探 花 文 鍾 先 生 行 狀 trong Giang thị gia phả 江 氏 家 谱 (do Giang Văn Hiển 江 文 顯 soạn vào năm 1849) cũng không có chi tiết đi tranh biện việc cống người vàng (có chi tiết đối đáp và bị giết)(100). Giai thoại này xuất hiện sớm nhất có lẽ là trong cuốn Giang Thám hoa tộc phả 江 探 花 族 谱, sau đó đi vào sách Danh nhân quê hương(101) và trở nên phổ biến hiện nay. Sự xuất hiện rất muộn như vậy cũng cho thấy rõ tính hư cấu, huyễn hoặc của câu chuyện.

Về Ngô Thì Nhậm, bản thân tờ Bẩm Phúc đại nhân và các bài thơ của vua Càn Long tặng cho Quang Trung đã khiến ông trở nên nổi tiếng trong dân gian với công trạng bác yêu sách cống người vàng của nhà Thanh. Sự thực thế nào, chúng ta đã thấy rõ ở trên. Nhưng cũng vì tư liệu tương đối rõ ràng như vậy cho nên giai thoại về Ngô Thì Nhậm không mang tính li kì, hấp dẫn như những giai thoại về các sứ thần khác.

Về Hà Tông Huân (1697 - 1766)(102), Ngô Trí Hòa (1565 - 1625)(103) và Thầy ĐJC(104), các tư liệu gắn họ với việc bác lệ cống người vàng khá ít ỏi và xuất xứ tư liệu không được minh xác (sự hư cấu thấy rõ). Riêng điều đó đã cho thấy sự xuất hiện muộn màng và tuỳ tiện của giai thoại. Ở đây chúng tôi chỉ ghi nhận mấy trường hợp này như những hiện tượng mang tính chất phụ hoạ mà thôi. Việc các môtíp, chi tiết trong giai thoại về vị sứ thần này được mượn sang vị sứ thần khác là một hiện tượng rất phổ biến trong dân gian và trong truyền thuyết.

Như vậy, liệu thuyết sứ thần bác bỏ lệ cống người vàng liệu có hạt nhân lịch sử nào không? Xin thưa khá nhiều. Bản thân các triều đại Đại Việt khi thực hiện việc cống người vàng đều không vui vẻ gì; tất cả đều miễn cưỡng và “giả vờ thần phục”. Cho nên, trong chừng mực nhất định, họ đều có ý thức làm thế nào phản đối, xoá bỏ việc này. Các sứ thần nhà Trần hẳn đã làm việc đó trước đòi hỏi vô lí của nhà Nguyên, cho đây là việc “từ xưa chưa từng có”. Sứ thần nhà Lê năm 1433 đã được giao nhiệm vụ “giải việc người vàng” (Bang giao lục). Sứ thần nhà Lê Trung hưng cũng định dùng vàng, bạc khối để thay thế người vàng hoặc tranh cãi về hình trạng người vàng. Và đặc biệt, có cả một văn bản biện luận về việc không cần phải cống người vàng. Đó chính là tờ Bẩm Phúc đại nhân. Lời tranh biện trong văn bản này rất sắc sảo. Chúng ta hãy đọc đoạn cuối tờ bẩm (thực chất là biện) đầy cảm xúc này: “Ôi! Đời xưa ấy các nước chư hầu vào chầu thiên tử, hoặc chầu ở phương nhạc, hoặc chầu ở kinh sư, ai đến được thì đến, còn ai không đến được thì sai con em vào chầu, quý hồ bưng ngọc tốt cầm vật tin, sao cho người trên kẻ dưới hiểu nhau. Còn như đúc người vàng thay mình vào chầu thì từ Đường, Ngu, Tam Đại cho đến Hán, Đường, Tống chưa có bao giờ […] Hai đời Nguyên Minh làm việc không theo đời xưa, sao đủ bắt chước? Cúi mong đại nhân, noi theo mệnh lớn, miễn cho nước tôi về việc đúc dâng người vàng, còn như lễ cống nạp lễ vật địa phương hàm năm, dám xin theo y lệ”(105). Cũng chính từ lời bẩm này cũng như bài thơ Càn Long tặng cho Quang Trung mà đến thời hiện đại, các nhà nghiên cứu mang tinh thần dân tộc rất cao đã sáng tạo thêm một truyền thuyết nữa, rằng chính Ngô Thì Nhậm (hoặc vua Quang Trung) là người có công đã chấm dứt lệ cống người vàng(106). Thực chất thế nào chúng ta đều có thể hình dung. Nhưng điều đó không làm mất đi cái tinh thần cốt tuỷ của người Việt từ xưa đến nay: không bao giờ chấp nhận một cách tự nguyện việc cống người vàng; nhiều khi tiến cống trong tư thế người chiến thắng và theo tinh thần yêu chuộng hoà bình, chán ghét chiến tranh. Chẳng qua là đối với thế lực lớn phương Bắc như thế, người Việt phải “chấp kinh tòng quyền”, “một điều nhịn chín điều lành”, “thần phục giả vờ”, “trong xưng đế, ngoài xưng vương” mà thôi! Và thực chất, cái gì cũng có giới hạn của nó, đi quá mọi sự sẽ khác. “Già néo đứt dây”, “quá mù hoá mưa”, “con giun xéo lắm cũng quằn”,v.v… những câu thành ngữ dân gian Việt Nam phản ánh suy nghĩ và văn hoá ứng xử của người Việt quả rất đúng trong trường hợp này.

Điểm lại quá trình huyền thoại hoá việc cống người vàng từ sử liệu chính thống đến truyền thuyết dân gian, chúng ta nhận thấy, ngoài vai trò của các bộ sử Việt (qua nhiều đời) thì một tư liệu đóng vai trò quan trọng (sớm nhất và cũng then chốt nhất) cho quá trình đó chính là tờ Bẩm Phúc đại nhân trong Bang giao hảo thoại. Mọi thuyết về việc cống người vàng trong dân gian (từ đền mạng tướng giặc cho đến sứ thần biện bác việc cống người vàng; từ thuyết cống người vàng muộn cho đến thuyết thay đổi hình trạng người vàng) đều quy tụ về những điều ít nhiều được đề cập trong Bẩm Phúc đại nhân. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của một văn bản viết đối với quá trình huyền thoại hóa, dân gian hoá các sử liệu chính thống, các “sự thực lịch sử” (điều này tương tự như văn bản Xuân đường đàm thoại 春 堂 談 話 đối với quá trình “huyền thoại, dân gian hoá” tiểu sử văn bản Hồ Xuân Hương; hoặc vai trò của văn bản Bạch Vân am tiên sinh Nguyễn Văn Đạt phả kí 白 雲 庵 先 生 阮 文 達 譜 記 đối với quá trình huyền thoại, dân gian hoá tiểu sử, sự nghiệp Nguyễn Bỉnh Khiêm(107)). Nói như vậy không có nghĩa là người đời sau nhất thiết phải đọc các văn bản này để kế thừa và phát triển nội dung của chúng mà chính xác hơn, tờ bẩm đã phản ánh “động hình” nhận thức, tư tưởng đang phổ biến đương thời và chuẩn bị cho những xu hướng tiếp sau.

*

*          *

            Nghiên cứu hiện tượng “cống người vàng thế thân” từ sử liệu chính thống đến truyền thuyết dân gian, chúng tôi không hoàn toàn nhằm đến việc truy tìm sự thật, sử thật hay chân lý bởi qua các văn bản, các diễn ngôn của các chủ thể khác nhau rất khó có thể đi đến tận cùng của chúng (nếu có thì may ra cũng chỉ là tiệm cận mà thôi). Các văn bản, diễn ngôn này bị chi phối bởi rất nhiều điều kiện, ý hệ, quyền lực và tri thức khác nhau và vì vậy sẽ rất khác nhau. Chúng tôi cũng không có tham vọng truy nguyên nguồn gốc của chúng mà chỉ mong muốn đi tìm các “duyên cớ” mà chúng tồn tại, được thể hiện và phát huy tác dụng trong một giai đoạn hay một thời kỳ lịch sử nhất định. Trên tinh thần đó, chúng ta có thể nhìn thẳng vào hiện tượng “người vàng thế thân” mà không ngại đụng chạm đến những chủ đề “nhạy cảm” thuộc về khoa nghiên cứu lịch sử truyền thống. Đối diện với nó, bạch hoá nó là cách tốt nhất để chúng ta rút ra những bài học và vượt qua nó trong hiện tại và tương lai hơn là tạo ra những diễn ngôn vòng vèo, nhiều uyển ngữ, phức tạp mới. Bằng việc so sánh các văn bản, các diễn ngôn về “người vàng thế thân” chúng tôi tìm thấy những ngộ nhận (vô tình hoặc hữu ý), những diễn giải phản ánh các hệ hình tư tưởng khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau, như: chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa dân tộc, tư tưởng bảo hoàng, tư tưởng dân chủ, đấu tranh ý thức hệ,… Qua khảo sát, chúng ta cũng thấy nổi lên vai trò của những văn bản, những diễn ngôn quan trọng, có tác dụng chi phối các văn bản, các diễn ngôn đương thời và về sau. Và cuối cùng có cả vai trò của những ngộ nhận thuộc về một hiện tượng mà học giả Umberto Eco đã đề cập đến trong cuốn Khả năng cầu may - ngôn ngữ và sự mất trí, đó là: “sức mạnh của sai lầm”(108)/.

                                                                                                Hà Nội, tháng 11 năm 2012.

                                                                                                            N.T.T

Chú thích:

 

(64) Đinh Lệnh Uy (1925), Lịch sử thượng chi kim nhân 歷 史 上 之 金 人, Nam Phong tạp chí số 96, Juin (bản chữ Hán), trang 93-94. Bài của Đinh Lệnh Uy cho thấy ông đã sử dụng văn bản tờ Bẩm Phúc đại nhân giống với văn bản phổ biến hiện nay chứ không phải bản mà sau đó không lâu Hoa Bằng có công bố. Nhưng ông lại cũng đọc và hiểu không sát ý tờ bẩm ở chỗ nói nhà Trần có cống người vàng. Việc hiểu nhầm đó vô tình lại đúng với ghi chép của sử sách Trung Hoa!

 

(65) Quan điểm của Đinh Lệnh Uy như sau: “Xét: khi quân Nguyên đánh Trần, hằng xuống dụ ép vua Trần vào triều cận. Vua Trần chối lấy cớ rằng mình có tật. Người Nguyên sức phải sắm người bằng vàng làm giống hình dáng quốc vương để thay sang triều kiến. Vua Trần sợ quân Nguyên luôn đến xâm lấn khuấy rối, sinh linh phải lầm than, cực chẳng đã phải nghe theo, dâng người vàng để cầu khỏi biến cố. Đó là lần đầu tiên dâng người vàng. Kịp đến khi vua Lê Thái Tổ được nước, vì cớ giết Liễu Thăng, phải dâng người vàng thế thân để tạ nhà Minh. Họ Mạc cướp nhà Lê. Người Minh (nguyên bản chữ Hán của Đinh Lệnh Uy viết là “清人”! - NTT) truyền đúc người vàng, dáng như tù nhân, mặt bơ phờ, đầu cúi xuống, dâng để chuộc tội. Đến Lê Trung hưng, lại đúc người vàng, thân đem tới tận Nam Quan, trình người Thanh (!) xét nghiệm. Nhân bấy giờ họ Lê đã mất, họ Trịnh giúp Lê, lùng nơi núi sâu kiếm lấy con cháu nhà Lê mà lập làm vua nước ta. Người Thanh (!) ngờ là họ Trịnh nói lừa, chứ chưa chắc hẳn là tông phái nhà Lê, liền sức bảo đúc người vàng đội mão, mặc trào phục, dáng người ngửng lên: làm chân hình vua Lê, để cầu ơn ở nước lớn. Về sau, khoảng giữa đời Lê Trung hưng mới bãi bỏ (nguyên văn: “後 黎 之 中 葉 始 亭”). Đến đời Quang Trung nhà Tây Sơn, Phúc Khang An nhà Thanh lại vin lệ cũ, bảo rằng: Mỗi khi thay triều đổi họ, nhà nào cũng phải có người vàng để tạ. Vậy sức bảo sắm lấy một pho người vàng mà dân biếu. Song họ hàng Tây Sơn từ chối, không chịu…” (Hoa Bằng trích dịch, trong Trở lại vấn đề cống người vàng (1)…, Tlđd, tr.2-3)). Có lẽ, hình thức chữ Hán của tư liệu này [Đinh Lệnh Uy (1925), Lịch sử thượng chi…, Tlđd, tr.93-94] (cũng như của sách Cổ kim giao thiệp sự nghi thông khảo) cũng là một nguyên nhân khiến cho chúng không được phổ biến rộng ở giai đoạn giao thời (“Nào có ra gì cái chữ Nho/ Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co” - Trần Tế Xương). Các tài liệu quốc ngữ của Trần Trọng Kim, Hoa Bằng do đó có tiếng nói phổ biến hơn. Đây là ví dụ cho thấy quyền lực của văn tự cũng có vai trò rất lớn trong các hiện tượng văn hoá, lịch sử.

 

(66) Thạch Bổ Thiên (1936), Lịch sử người vàng - Một cuộc ngoại giao thắng lợi của triều Tây Sơn, tuần báo Sông Hương, số 19, ra ngày 5 Decembre [in trong Phan Khôi (chủ nhiệm) (2009), Sông Hương: tuần báo ra ngày thứ bảy (1/8/1936 - 27/3/1937), Nxb Lao động - Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, tr.440-444]. Theo Thạch Bổ Thiên: “Đại thân kim nhân”, nghĩa là “con người vàng thế cho bản thân”. Bản thân đó là bản thân ai? Bản thân của vua nước An Nam, chứ còn ai nữa? Bốn chữ ấy, người Tàu hiểu hay người An Nam hiểu cũng một nghĩa như nhau: Lẽ đáng ra thì vua nước Nam phải nộp mình về Trung Quốc mà chịu tội; nhưng đại hoàng đế bên “Thiên triều” tha cho, chỉ bắt thay thế bằng một con người bằng vàng” [tr.441]. Cũng theo ông, triều Trần Thái Tôn cống người vàng lần đầu tiên, sau đó đến Lê Thái Tổ “vì vua đã giết Liễu Thăng, một viên đại tướng của Minh triều, nên về sau, khi hai bên giảng hoà xong mà vua nhà Minh còn kèo nài một khoản ấy. Rút cục vua Lê phải dựa theo lệ nhà Trần trước, dâng người vàng để thay thế cho bản thân. Theo sử văn thì lần dâng người vàng nầy cũng cùng một ý nghĩa với lần trước; có kẻ muốn hiểu rằng con “người vàng” ấy làm như thế mạng cho Liễu Thăng, không phải; lần thứ ba là nhà Mạc (người vàng cúi mặt, đầu bù tóc rối, mặt mày nhem nhuốc), lần thứ tư nhà Lê trung hưng (đầu ngẩng lên, giống hệt vua Lê). “Từ nhà Trần về sau, có bốn lần bắt đầu bày ra sự dâng người vàng như trên đây đã kể. Nhưng mỗi một lần bày ra như thế, phải tuân tuần đến bao lâu mới thôi, nghĩa là từ đầu đến cuối, nước ta dâng “người vàng” cho Tàu cộng là bao nhiêu “người” cả thảy, sự ấy nếu biết được thì hay lắm, ngặt sử chép sơ lược không thể tra cho biết được” [tr.442].

 

(67) Xem Trần Trọng Kim (1920), Việt Nam sử lược, Nxb Trung Bắc tân văn, Hà Nội, in lần thứ nhất.

 

(68) Theo Hoa Bằng cho biết, ông có viết về vấn đề này trên Thế giới tân văn, số 28,29  ra ngày 15 và 22 Janvier, 1937; nhưng chúng tôi hiện chưa có điều kiện tiếp xúc với các bài viết đó. Tuy nhiên, quan điểm của Hoa Bằng được thể hiện qua 1 loạt 4 bài ông đăng trên Tạp chí Tri Tân năm 1943: Hoa Bằng (1943), Chính vua Quang Trung Trung có công trong việc phá bỏ lệ cống người vàng, Tạp chí Tri Tân, số 83, 18-Fevrier, tr.2-3 và 15; Hoa Bằng (1943), Trở lại vấn đề cống người vàng (1)…, Tlđd; Hoa Bằng (1943), Trở lại vấn đề cống người vàng (2): Không phải là Trần mà là Lê làm việc cống ấy trước, Tạp chí Tri Tân, số 103, 15-Juillet, tr2-3 và 21; Hoa Bằng (1943), Trở lại vấn đề cống người vàng (3): Trước triều Quang Trung ông Nguyễn Hãng ở đời Lê Giụ Tông (1705 - 1728) đã xin “đình” (dừng lại) được lệ cống ấy, Tạp chí Tri Tân, số 104, 22-Juillet, tr2-3 và 21.

 

(69) Hoa Bằng (1943), Trở lại vấn đề cống người vàng (1)…, Tlđd, tr.2, tr.21.

 

(70) Hoa Bằng (1943), Trở lại vấn đề cống người vàng (2)…, Tlđd, tr2-3. Tương tự như Đinh Lệnh Uy, văn bản Bẩm Phúc đại nhân mà Hoa Bằng sử dụng không có phần đầu các văn bản Bẩm Phúc đại nhân phổ biến hiện nayPhần đầu bài biểu do Hoa Bằng sử dụng như sau: “Xưa các đời Trần, Mạc, vì có tội với Trung Quốc nên phải dâng người vàng thế hình. Quốc trưởng nước tôi từ trước là một người áo vải, nhân thời thế, vùng lên làm việc. Đối với Lê vương, vốn không có vai lứa ai là vua, ai là tôi chi cả. Còn hay mất là do ở số trời, theo hay bỏ là do ở lòng người. Quốc trưởng nước tôi không có ‎lấy nước của vua Lê mà đem sánh với kẻ tranh giành cướp đoạt? Vả lại, trước đây Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị đem binh lính sang, quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải ứng phó lại chứ không hề xâm phạm bờ cõi của quý‎ quốc để có tội. Nay thấy ngài (Phúc Khang An) theo lệ Trần, Lê, Mạc cũ mà bắt cống người vàng, vậy thì quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại té ra lại phải liệt vào hàng tiếm ngụy như nhà Mạc, mà chút lòng cung thuận từ tấc thành sợ Trời, thờ nước lớn lại phải chung một lệ như nhà Trần giết Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng ư? Như vậy, kể về tình thì quốc trưởng nước tôi bị ức, không thể không trông ở ngài cân nhắc cho vậy…”Về toàn bộ bài biểu mà Hoa Bằng sử dụng, xin xem bài: Hoa Bằng (1943), Chính vua Quang Trung…, Tlđd. Theo như mô tả của Hoa Bằng trong các bài viết của ông thì hầu hết các nhà nghiên cứu đương thời với ông đều dùng văn bản này. Điều đó dẫn đến sự nhận thức về việc cống người vàng thời Trần có phần hạn chế (phần nhiều dừng ở sự phỏng đoán hoặc phủ nhận).

 

(71) Hoa Bằng (1943), Trở lại vấn đề cống người vàng (2)…, Tlđd, tr.2.

 

(72) Bang giao hảo thoại, VHv.1831, tờ 23-24. Lời dịch trong: Lâm Giang, Nguyễn Công Việt (chủ biên), Ngô Thì nhậm toàn tập, tập 3, Tlđd, tr.487-488.

 

(73) Trần Nghĩa (chủ biên, 1993), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, tập 2, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.155. Sách Lam Sơn thực lục tục biên  do Đỗ Công Bưu 杜 公 彪 chép năm 1942 có chép một dị bản khác của câu chuyện này với đôi chút sai dị: “Đến khoảng niên hiệu Chính Hoà thời Lê Hi Tông (!), Tiến sĩ, Lại bộ Thượng thư Tố Quận công Nguyễn Công Hãng đi sứ phương Bắc, không chịu nộp cống [người vàng]. Triều đình phương Bắc truy hỏi. Nguyễn Công Hãng trả lời: Nếu trận Chi Lăng mà không thất bại thì Liễu Thăng liệu có sống đến ngày hôm nay? Khí thế lời lẽ mạnh mẽ, thẳng thắn; người phương Bắc thán phục, bèn bỏ lệ này” (至 禧 宗 正 和 間, 東 岸 縣, 扶 珍 社 進 士, 吏 部 尙 書, 素 郡 公 阮 公 沆 北 使, 不 肯 常 納. 北 朝 詰 之. 公 沆 曰: 芝 陵 不 敗, 柳 升 于 今 存 乎? 詞 氣 壯 直, 北 人 嘆 服, 坐 施 其 制) [Lam Sơn thực lục tục biên, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu VHv.1384/1-2, tờ 21]. Mục “Việt Hoa dật thoại” trên tạp chí Nam Phong (số 135, chữ Hán, tr.51) và mục “Bắc sứ giai thoại” (tạp chí Nam Phong, số 140, chữ Hán, tr.11) cũng đăng lại truyện đi sứ Nguyễn Công Hãng trong Tang thương ngẫu lục. Việc đưa vào “dật thoại”, “giai thoại”, cho thấy báo Nam Phong coi đây là giai thoại chứ không phải tín sử theo tinh thần học thuật.

 

(74) Phi-li-pê Bỉnh, Sách sổ sang chép các việc. Viện Ðại học Ðà-lạt, 1968, tr. 494 - 499”. Dẫn theo Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Ký sự đi Thái Tây: Phi-Li-Bê Bỉnh (1759 - 1830?) Phạm Phú Thứ (1821 - 1882), URL: http://chimviet.free.fr/lichsu/chquynh/chqyn_kysudithaitay.htm

 

(75) Phan Huy Chú (2007), Lịch triều…, tập 2, Tlđd, tr.603. Phan Huy Chú hẳn có đọc tờ Bẩm Phúc đại nhân trong sách của Ngô gia văn phái. Nếu tờ bẩm viết rằng nhà Trần đã cống người vàng thì Phan Huy Chú hẳn phải biết và không thể viết như trên. Vì vậy, chúng ta có cơ sở tin rằng bản dịch tờ Bẩm Phúc đại nhân hiện nay hiểu chưa chuẩn xác tinh thần của tờ bẩm. Với sự uyên bác của Phan Huy Chú, hẳn ông cũng phải biết việc đòi cống người vàng đã có từ thờ Nguyên. Vậy thì ở đây, có lẽ tình cảm dân tộc có lẽ đã chiến thắng tư duy khoa học, niềm kính ngưỡng với một vị tiền nhân đồng hương đã cao hơn tinh thần sử học.

 

(76) Trần Trọng Kim (1999), Việt Nam sử lược, Nxb Văn hoá thông tin (tái bản), Hà Nội, tr.251.

 

(77) Hoa Bằng (1943), Trở lại vấn đề cống người vàng (3)…, Tlđd, tr.3, tr.21.

 

(78) Hoa Bằng (1943), Trở lại vấn đề cống người vàng (3)…, Tlđd, tr.2-3.

 

(79) Vũ Ngọc Khánh (2001), Kho tàng giai thoại Việt nam, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2001, tr.606-607. Tâm lí này ảnh hưởng đến cả việc dịch thuật các tác phẩm văn học trung đại. Chẳng hạn, Nhất Uyên dịch bài thơ Liễu Thăng thạch của Ngô Thì Vị đã dịch câu “Thường kim ngã tự tiếu Minh ngu” thành “Người vàng còn mãi nhục Minh ngu” (Đòi bồi thường người vàng, ta cười cho nhà Minh quá ngu tối). Trong khi câu này đơn giản là: “Đòi bồi thường vàng, tôi tự cười cho nhà Minh ngu dốt”. Quả thật, theo sử liệu thì nhà Minh đòi bồi thường chiến phí bằng vàng, nhưng điều đó không quan hệ gì đến “người vàng” cả. Chi tiết bản dịch của Nhất Uyên xem: Phạm Trọng Chánh (2013), “Nguyễn Du (1766-1820) và Ngô Thời Vị (1774 - 1821), hai tài năng danh tiếng đồng thời”,  Văn hoá Nghệ An online, URL: http://vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van-hoa3/nh%E1%BB%AFng-g%C3%B3c-nh%C3%ACn-v%C4%83n-h%C3%B3a/nguyen-du-1766-1820-va-ngo-thoi-vi-1774-1821-,-hai-tai-nang-danh-tieng-dong-thoi 

 

(80) Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1, Tổ phiên dịch Viện sử học dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.310.

 

(81) Hoan Châu kí 驩 州 記 của họ Nguyễn Cảnh (tiết 2: “Nghị Hoàng đế tiến đóng Đông Kinh/ Phùng Khắc Khoan phụng sứ Bắc quốc”) chép việc Phùng sang sứ Yên Kinh không có chi tiết tranh biện về người vàng; Nam triều công nghiệp diễn chí 南 朝 功 業 演 志 của Nguyễn Khoa Chiêm có 1 đoạn dài kể về giai thoại Phùng sang sứ Bắc quốc (mượn nhiều chi tiết dân gian kiểu Mạc Đĩnh Chi sứ Nguyên: người xấu xí, chim sẻ, phân biệt ngựa con ngựa mẹ,…) nhưng cũng không có giai thoại cống người vàng. Truyện Phùng Khắc Khoan trong Nam Hải dị nhân liệt truyện 南 海 異 人 列 傳 của Phan Kế Bính cũng vậy. Truyện Phùng Khắc Khoan trong “Bắc sứ giai thoại” (Nam Phong tạp chí, số 140, Hán văn, tr.10) cũng không hề có chi tiết này.

 

(82) Nguyên văn: “金 人 入覲 詞 無 屈, 玉 橛 揚 休 筆 欲 仙” [Trần Duy Phương, Phùng Khắc Đồng (1998), Trạng Bùng - Làng Bùng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, tr.184-185].

 

(83) Nguyên văn: “長 跪 雙 童 石 作 鬟/ 金 人 不 似 會 南 關” [Trần Duy Phương, Phùng Khắc Đồng (1998), Tlđd, tr.169-170]. Tuy nhiên, bài thơ của Nguyễn Duy Trung nói đúng bối cảnh của việc tranh biện về người vàng là ở Nam Quan, không phải ở Trung Hoa.

 

(84) Theo thông lệ, việc tiến cống phải được thống nhất từ trước qua con đường công văn giấy tờ hoặc bàn thảo trực tiếp ở biên giới hai nước (trừ những trường hợp bất thường phát sinh trên con đường đi sứ). Vì vậy khó có thể có chuyện sứ thần Đại Việt sang Trung Hoa mới biện bạch về hình dạng người vàng. Nếu có thì đó là biện bạch cho những lần sau, hoặc những vấn đề khác. Có thể tham khảo điều này qua các văn kiện ngoại giao giữa hai nước trong quá khứ.

 

(85) Hoa Bằng (1943), Trở lại vấn đề cống người vàng (3)…, Tlđd; Bùi Duy Tân, Ngọc Liễn, Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Ty Văn hoá thông tin Hà Sơn Bình, 1979; Trần Lê Sáng, Phùng Khắc Khoan: cuộc đời và thơ văn, Nxb Hà Nội, 1985; Trần Lê Sáng, Về sự nghiệp ngoại giao của cụ trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, trong Phùng Khắc Khoan: Cuộc đời và Thời đại (Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Danh nhân văn hoá Phùng Khắc Khoan), Sở văn hoá thông tin thể thao Hà Tây - Uỷ ban nhân dân huyện Thạch Thất, 1993, tr.66-71; Nguyễn Vinh Phúc, Phùng Khắc Khoan: Thời đại - Cuộc đời, trong Phùng Khắc Khoan: Cuộc đời và Thời đại, Tlđd, tr.14-21;  Bùi Duy Tân (chủ biên), Thơ văn Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007;v.v… Tiêu biểu có ý kiến của nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc. Ông cho rằng: “Kì tích của Phùng trong lần ngoại giao này chính là việc “người vàng” và “tước phong” cho vua ta (“…”). Từ đó trở về sau, nhà Minh phải chấp nhận mẫu người không cúi đầu” [Nguyễn Vinh Phúc, Phùng Khắc Khoan: Thời đại - Cuộc đời, Tlđd, tr.20],v.v…

 

(86) Giuliano Baldinotti (1626), Tường trình về Đàng Ngoài, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch, URL: http://www.dunglac.org/index.php?m=module3&v=chapter&ib=77&ict=622].

 

(87) Giáo sĩ Antonio francisco Cardim chép: “Có chín tỉnh thuộc về lãnh thổ nhà chúa [tức vua Lê], còn chúa Đàng Trong, vua người Lào và chúa Cao Bằng thường thì phải đến triều cống, còn về phần ông, thì mỗi năm phải phái người sang triều cống vua Trung Quốc mà ông thần phục, phẩm vật thì gồm ba tượng vàng và ba tượng bạc, giá bằng 5 hay 6 nghìn êcu” [Antonio francisco Cardim (1644), Tường trình về Đàng Ngoài, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch, URL: http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=chapter&id=85&ib=77&ict=624]. Ghi chép này hẳn sao lại ghi chép của Giuliano Baldinotti.

 

(88) Nguyên văn: “迨 黎 之 中 葉, 金 人 之 獻 亦 既 停 罷, 自 此 歲 貢 儀 物, 惟 有 金 子 折 作, 已 爲 故 典” [Bang giao hảo thoại, VHv.1831, tờ 23-24].

 

(89) Phan Huy Chú (2007), Lịch triều…, tập 2, Tlđd, tr.603.

 

(90) Phan Huy Chú (2007), Lịch triều…, tập 2, Tlđd, tr.602.

 

(91) Trần Trọng Kim (1999), Việt Nam sử lược, Tlđd, tr.251.

 

(92) Hoa Bằng (1943), Chính vua Quang Trung…, Tlđd, tr.2.

 

(93) Vũ Ngọc Khánh cho rằng “điều thường được ghi vào sử sách từ khoảng thế kỉ XVII trở đi là nhiều sứ giả của ta sang Trung Quốc đã yêu cầu xin bãi bỏ lệ cống người vàng. Nhiều câu chuyện được truyền văn hoặc được ghi chép về vấn đề này, khá là thú vị” [Vũ Ngọc Khánh (2001), Kho tàng giai thoại,…, Tlđd, tr.607].

 

(94) Đại Việt sử ký tục biên chép“Mùa hạ, tháng tư [Mậu Tuất, 1718] [Triều đình] sai Bồi tụng Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Bá Tông sang Thanh cáo phó về việc tang vua Huy Tông, Bá Tông chết dọc đường (…) Tháng 9, đoàn sứ thần Nguyễn Công Hãng từ Yên Kinh về nước” [Sử quán nhà Lê, Đại Việt sử kýtục biên, Ngô Thế Long, Nguyễn Kim Hưng dịch, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2011, tr.73-75].

 

(95) Bang giao chí chép: “[1718] (ngang với năm Khang Hy thứ 57 nhà Thanh), sai bọn Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Bá Tông sang Thanh cáo tang Hy Tông. Khi bọn Nguyễn Công Hãng trở về, có mang tờ tư của Lễ bộ nói vua Thanh cho 6 năm cống một kì nộp cả hai lễ, chỉ sai bồi thần 3 viên, tuỳ hành 20 viên. Từ đó sứ bộ cống có một viên Chánh sứ và hai viên Phó sứ” [Phan Huy Chú (2007), Lịch triều…, tập 2, Tlđd, tr.606-607].

 

(96) Bang giao chí chép: “[1715] (ngang với năm Khang Hy thứ 54 nhà Thanh), sai Nguyễn Công Cơ, Lê Anh Tuấn, Đinh Nho Hoàn, Nguyễn Mậu Áng sang cống nhà Thanh. Khi Nguyễn Công Cơ trở về, có đem tờ tư của Lễ bộ nói là phụng chỉ vua Thanh, những đồ cống vật như lư hương, bình hoa bằng vàng và chậu bạc cho chiếu theo số cân đúc thành đĩnh vàng, đĩnh bạc mà nộp cống, giao cho Bố chính ti Quảng Tây thu trữ, còn ngà voi và sừng tê cho miễn cống” [Phan Huy Chú (2007), Lịch triều…, tập 2, Tlđd, tr.606-607].

 

(97) Trần Nghĩa (chủ biên, 1993), Tổng tập tiểu thuyết…, Tlđd, tr.155.

 

(98) Chẳng hạn Toàn thư (Bản kỷ, Quyển 21, tờ 21b) chép: “Đinh Sửu, [Dương Hoà] năm thứ 3 [1637], (Minh Sùng Trinh năm thứ 10) […] Tháng 3, sai sứ sang nhà Minh. Bọn Nguyễn Duy Hiểu, Giang Văn Minh, Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình, Thân Khuê sang cống hàng năm và cầu phong”.

 

(99) Nguyễn Hữu Tạo (1849), Thám hoa công truy trạng bi, Văn bia đặt tại từ đường họ Giang ở Mông Phụ,  Đường Lâm (Hà Nội).

 

(100) Giang Văn Hiển (1849), Giang thị gia phả, Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu: R.1910 tờ 12-14.

 

(101) Nguyễn Khắc Đạm, Bùi Huy Hồng, Nguyễn Vỵ, Ngọc Liễn,… (1976), Danh nhân quê hương, tập 3Ty Văn hoá Hà Sơn Bình xuất bản. Giai thoại được tác giả Hà Kỉnh kể như sau: “Một hôm, nhân ngày tiết khánh thọ của vua Minh, tất cả sứ thần các nước có mặt tại dịch xá đều mũ áo chỉnh tề, mang theo lễ vật vào triều kiến “thiên triều”. Riêng ông Minh không chịu đi và nằm lăn ra mà khóc lóc thảm thiết, cố ý làm sao việc này lọt được đến tai vua Minh. Được tin báo, vua Minh vừa tức giận, vừa sửng sốt, cho rằng đây là việc chẳng thường, bèn cho sứ ra gọi ông Minh vào chầu để xem hư thực ra sao? Được lệnh triệu vào chầu, ông Giang Văn Minh mũ áo chỉnh tề, đàng hoàng tiến vào sân rồng yết kiến vua Minh. Thấy ông Minh có dáng người đi đứng uy nghi lẫm liệt, tài trí thông minh lanh lợi, nói năng hoạt bát, vua Minh liền phán rằng: “Hôm nay là ngày khánh thọ của thiên triều, cả nước vui mừng, các sứ thần đều phấn khởi vui mừng yến tiệc, cớ sao một mình sứ thần lại không vui mà lăn ra khóc lóc thảm thiết như vậy là có ý gì?” Ông Minh liền dõng dạc tâu rằng: “Theo lệnh vua Lê, sứ thần được sang triều cống quý quốc thấm thoát đã hàng năm lưu lạc trên đất khách quê người nhưng vẫn chưa làm tròn trọng trách, còn lòng dạ đâu mà vui được. Nay đã đến ngày giỗ vị tằng tổ của thần mà thần vẫn chưa được về quê hương đàn hương tưởng niệm, như vậy chẳng là đắc tội với tiên tổ hay sao?”, rồi ông lại ôm mặt mà khóc. Nghe rõ sự tình, vua Minh liền cả cười mà phán rằng: “Nhà người quả là người trung hiếu vẹn toàn, thật là chí lí. Nhưng tưởng chuyện gì chứ việc ông tổ đã ba đời rồi đến nay còn gì là giàng buộc tình cảm nữa mà phải lo mang tiếng với người đời chỉ vì không về quê hương tưởng niệm”. Nghe xong vua Minh phán, ông thoáng thấy một ý hay, có thể nhân cơ hội này mà giúp cho nước nhà một việc lớn, ông liền tâu rằng: “Thần cũng nghĩ như vậy, nhưng khốn nỗi, người đời có nghĩ thế đâu! Ngay như việc Thiên triều bắt dân tôi năm nay lại phải cống người vàng để trả “nợ Liễu Thăng”, mà Liễu Thăng thì đã chết cách hơn 200 năm rồi. Chuyện cũ đã mờ, mà dân tôi hàng năm cũng vẫn còn chưa được Thiên triều xoá bỏ lệ cũ. Hơn nữa vua tôi nhà Lê có tội gì đâu mà hàng năm Thiên triều vẫn đòi lễ cống! Đó chẳng phải là một việc vô lí, trái với đạo lí và thể diện của Quốc vương tôi sao? Ngày nay, Thiên triều khuyên thần đừng thương nhớ người quá cố, thì thần cũng xin Thiên triều noi theo mệnh lớn mà từ nay miễn cho nước tôi lệ đúc người vàng để tiến cống nữa. Đó chẳng phải là một việc tốt để gây lại mối giao hảo bền vững giữa hai nước láng giềng đó sao?”. Trước lời tâu chân tình, lí lẽ đanh thép và đầy sức thuyết phục đó, vua Minh cũng tự thấy việc bắt dân Nam hàng năm vẫn phải dâng lệ cống người vàng để trả “nợ LiễuThăng” là vô lí, nên đã ra lệnh bãi bỏ lệ cống người vàng, và cũng từ đây hàng năm dân ta chấm dứt được cái việc trả “nợ Liễu Thăng” kéo dài từ thế kỉ thứ 15 đến lúc bấy giờ” [tr.47-49]. Hà Kỉnh cũng cho rằng: “Chúng bắt vua Lê hai lần phải lên tận trấn Nam Quan đẻ xét hỏi, nhận mặt và còn sách nhiễu đòi lễ vật và cống nạp người vàng mà nhân dân ta thời đó thường gọi là trả “nợ Liễu Thăng”. Sau nhiều lần cầu phong và xin xỏ, vua Lê mới được nhà Minh phong cho làm An Nam đô thống sứ và ban cho một chiếc ấn bạc (ý muốn không công nhận nền độc lập của nước ta mà chỉ coi nước ta là một thuộc quốc). Nhưng chẳng bao lâu, phong trào nông dân khởi nghĩa nổi dậy khắp nơi và nhà Minh đang có nguy cơ bị sụp đổ. Trong lúc đó, vua Lê, chúa Trịnh vẫn một lòng mê muội thi hành chính sách ươn hèn bạc nhược, không còn giữ nổi thể thống của một quốc gia phong kiến độc lập nữa. Được thể, nhà Minh ngày càng lấn áp và sách nhiễu vua Lê. Sau nhiều năm đã bãi bỏ lệ cống người bằng vàng mà thay bằng đồ cống nạp khác, lúc này nhà Minh lại yêu sách bắt vua Lê mỗi năm phải đích thân lên tận thành Lạng Sơn để “hội khám” và dâng đồ cống lễ gồm 2 người bằng vàng và bạc, mỗi người đều cao 1 thước 2 tấc và nặng 10 cân cùng nhiều đồ cống vật khác. Có lần chúng không thèm đến nhận lễ, vua Lê phải lủi thủi trở về kinh” [tr.45-46]. Việc nhấn mạnh và nói quá việc cống người vàng của tác giả có 2 mục đích: tố cáo nhà Minh, đồng thời phê phán sự hèn yếu của nhà Lê. Lưu ý rằng, cuốn sách này ra đời trong bối cảnh căng thẳng Việt Nam - Trung Quốc đã bắt đầu lên cao; nó cũng ra đời trong hoàn cảnh phong trào “phản đế, phản phong” vẫn còn rất sôi nổi đương thời.

 

(102) Giai thoại được kể như sau: “Công trạng đáng nhớ [của ông] là trong đấu tranh ngoại giao, đòi lại đất, bỏ lệ cống người vàng. Sau chiến thắng quân Minh, năm 1428 Lê Lợi lên ngôi, có đưa biểu nghị hòa, cầu phong. Minh Tuyên đế công nhận nhưng đòi vua Đại Việt sang Yên Kinh bái yết và đòi đền người vàng Liễu Thăng (bị ta chém chết ở ải Chi Lăng). Vua ta thoái thác, yết kiến và để giữ hòa bình cho cống người vàng; thành lệ hàng năm. Tuy nhiên, cũng tùy lúc mạnh yếu mà cống hay không. Đến đời Thanh, chính quyền phong kiến phương Bắc vẫn thường hay hạch hỏi; bằng đấu tranh ngoại giao, bác biện những lý lẽ vô lối, Hà Tông Huân đã giúp nước ta bỏ hẳn lệ này” [Nguyễn Sĩ Đại, Ông Trạng Làng Vàng, URL: http://www.baomoi.com/Ky-IV--Ong-Trang-Lang-Vang/54/6420952.epi].

(103) Giai thoại được kể như sau: Ngô Trí Hòa được cử làm Chánh sứ sang triều Minh năm 1606, ông đã có công “thuyết phục vua Minh bỏ lệ cống người vàng thay bằng vật phẩm khác”  [Trần Minh Siêu (2009), Những hiện tượng độc đáo trong khoa bảng xứ Nghệ, trong Thông tin Khoa học - Công nghệ Nghệ An, số 2, URL: http://www.ngheandost.gov.vn/JournalDetail/ar238_Nhung_hien_tuong_doc_dao_trong_khoa_bang_xu_Nghe.aspx].

 

(104) Phi-li-pê Bỉnh, Sách sổ sang chép các việc, Tlđd.

 

(105) Bang giao hảo thoại, VHv.1831, tờ 23-24. Lời dịch trong: Lâm Giang, Nguyễn Công Việt (chủ biên), Ngô Thì nhậm toàn tập, tập 3, Tlđd, tr.487-488.

 

(106) Chẳng hạn, Đinh Lệnh Uy cho rằng: “Phúc Khang An sau khi xem [tờ bẩm] lời thẳng thắn, lí hào hùng, không dám thi hành lại yêu sách. Đương thời triều đình Tây Sơn có thể nói là có người giỏi, hơn hẳn các triều Trần Lê” (福 康 安 見 詞 直 理 壯, 不 敢 復 行 要 索. 當 時 西 山 朝 庭, 可 謂 有 人, 勝 於 陳 黎 遠 矣) [Đinh Lệnh Uy (1925), Lịch sử thượng chi kim nhân…, Tlđd, tr.94]. Hoa Bằng viết: “Bức thư phản kháng ấy quả có công hiệu. Vua Thanh phải nhượng bộ, rồi tỏ cái ý ‘bắt chẳng được, tha làm phúc’ trong mấy câu thơ này tặng vua Quang Trung: Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân” [Hoa Bằng (1943), Chính vua Quang Trung…, Tlđd, tr.]. Vũ Ngọc Khánh còn bình luận: “Không biết các ông đã đấu tranh, thuyết phục như thế nào (sử không ghi cụ thể). Triều đình nhà Thanh xem việc nhận người vàng như thế là xấu, không vinh dự gì cho “thiên triều”. Câu thơ của vua Càn Long viết: Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân. Nghĩa là: Triều nhà Thanh là một triều đại cao quý, xem việc cống người vàng của các thời trước là việc làm thô bỉ” [Vũ Ngọc Khánh (2001), Kho tàng giai thoại,…, Tlđd, tr.610].

 

(107) Xem: Đào Thái Tôn (1999), Hồ Xuân Hương: tiểu sử văn bản, tiến trình huyền thoại dân gian hóa, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội; Trần Khuê (1996), Cần hiểu đúng Nguyễn Bỉnh Khiêm và vương triều Mạc, trong Nghiên cứu và tranh luận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

 

(108) Nguyên văn: “the force of falsity”. Đây là tên một tiểu luận trong cuốn: U.Eco (1999), Serendipities – language and lunacy, translated by William Weaver, Orion Books Ltd, London.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 8-9 năm 2012, tr.146-181.URL: http://www.vjol.info/index.php/ncpt-hue/article/view/8730/0
 

Post by: Vu Nguyen HNUE
10-10-2020