Nghiên cứu đặt vấn đề: Trong tiếng Việt chỉ có các phương thức cấu tạo từ sau: phương thức chuyển âm hay biến âm, phương thức chuyển loại - tương tự như hình thức sinh sản vô tính, và phương thức ghép tương tự như phương thức sinh sản hữu tính trong sinh vật học.
1. Phương thức cấu tạo từ là “cách thức mà ngôn ngữ học tác động vào hình vị để cho ta các từ”[6,tr.25]. Theo Đỗ Hữu Châu, “tiếng Việt sử dụng ba phương thức sau đây: từ hoá hình vị, ghép hình vị và láy hình vị” [6, tr.25]. Trong số 3 phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt nêu trên, phương thức ghép được tất cả các nhà nghiên cứu Việt ngữ học ở trong và ngoài nước thừa nhận, không có ai nghi ngờ (xem [2,tr.43,51,65,73,359];[4,tr.17,22];[6,tr.51,52];[7,tr.198,201];[9,tr.4,12];[10,tr.173,174];[14,tr.73];[26,tr.15];[27,tr.59];[28,tr.7,17,18,90, 300];29,tr.25];[30,tr.56,61];[34,tr.164,168];[37,tr.6];[38,tr.13,14];[40,tr.92];[41,tr.18,19];[47,tr.42]. Quan điểm của chúng tôi cũng như vậy.
Riêng phương thức được gọi là “từ hoá hình vị” là phương thức được giáo sư Đỗ Hữu Châu đưa ra đầu tiên và định nghĩa: “Từ hoá hình vị là phương thức tạo từ tác động vào bản thân một hình vị làm cho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ mà không thêm bớt gì cả vào hình thức của nó. Những từ như: nhà, xe, áo, người, phanh, mì chính, lốp(xe đạp) là những từ hình thành do sự từ hoá các hình vị nhà, xe, áo, người, phanh, mì chính, v.v…” [6,tr.25]. Sau này giáo sư Hoàng Văn Hành đã tiếp thu ý kiến của giáo sư Đỗ Hữu Châu và định nghĩa: “ Từ hoá hình vị là quá trình cấu tạo từ mà trong đó hình vị được cấp những đặc trưng nào đó về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp theo những quy tắc nhất định để thành từ đơn”[20,tr.21]. Ngoài ra hầu như không còn tác giả có tên tuổi nào khác ở trong và ngoài nước đề cập đến phương thức cấu tạo các từ đơn trong tiếng Việt, nghĩa là họ đã coi các từ do một âm tiết tạo thành là mặc nhiên, không cần phải bàn đến phương thức cấu tạo của chúng. Đối với các tác giả có quan điểm cho rằng trong tiếng Việt, mỗi âm tiết tạo thành một từ, chẳng hạn, M.B. Emeneau [53] và sau này là Nguyễn Thiện Giáp[15, tr.69], thì vấn đề phương thức cấu tạo từ không được đặt ra.
Theo quan điểm của chúng tôi, cái gọi là “phương thức từ hoá hình vị” được giáo sư Đỗ Hữu Châu đưa ra đối với các từ đơn tiết trong tiếng Việt chỉ là mĩ từ cốt để có đủ các phương thức cấu tạo cho các loại từ được tác giả thừa nhận trong tiếng Việt mà thôi: từ đơn, từ ghép, từ láy. Chẳng lẽ có từ đơn mà lại không có phương thức tạo ra!? Thực ra, theo nội hàm khái niệm được biểu hiện bằng các thuật ngữ từ và hình vịtrong ngôn ngữ học phương Tây, bản thân một âm tiết nếu đã mang đầy đủ ý nghĩa từ vựng nên có thể sử dụng tự do trong câu và có thể làm thành phần câu thì tự nó đã có phẩm chất của một từ rồi mà chẳng cần phương thức nào tạo ra. Đó là phẩm chất từ của loại âm tiết này. Trong tiếng Việt, ngoài loại âm tiết có phẩm chất của từ như thế, còn có loại âm tiết chỉ mang phẩm chất của hình vị .
Theo chúng tôi, trong trường hợp này, cần chú ý phân biệt hai bình diện nhận thức và bản thể của âm tiết tiếng Việt. Cụ thể là khả năng có thể hành chức một mình như một từ hay khả năng chỉ có thể hành chức như một hình vị - đó là những thuộc tính thuộc bản thể của âm tiết tiếng Việt. Còn việc coi âm tiết đó là từ hay hình vị hoàn toàn thuộc nhận thức của cá nhân nhà nghiên cứu. Bằng chứng là cùng một âm tiết, có người cho là từ, có người chỉ cho là hình vị. Chẳng hạn như các âm tiết là các từ Việt cổ nay không còn sử dụng độc lập (như chiền trong chùa chiền, han trong hỏi han…), hay các âm tiết Hán Việt, các âm tiết Ấn Âu trong tiếng Việt không hành chức độc lập, tự do trong câu, được tuyệt đại đa số các nhà nghiên cứu chỉ coi là hình vị, còn M.B. Emeneau và Nguyễn Thiện Giáp lại coi là từ. Đặc biệt là các kết hợp song tiết trong tiếng Việt kiểu như: hoa hồng, sân bay, áo dài, tai hồng, đường băng, máy bay, v.v…nhiều người coi là từ ghép, song nhiều người khác lại cho đó là các tổ hợp cố định…Vả lại trong thực tế truyền thống ngữ văn cổ điển của Việt Nam cũng không hề có cái tên gọi hay khái niệm "từ" mà chỉ có các tên gọi hay khái niệm "tiếng" hoặc "tự"(chữ) mà thôi, mặc dù các thực thể đơn vị ngôn ngữ ấy vẫn tồn tại từ xưa đến giờ..Vả lại, khi một âm tiết nào đó đã có thuộc tính bản thể là từ thì người ta cũng chẳng cần phải sử dụng phương thức tạo từ nào đó tác động vào bản thân âm tiết - hình vị ấy để “làm cho nó có những đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ mà không thêm bớt gì cả vào hình thức của nó”[6,tr.25], hay cũng không cần (trong trường hợp âm tiết đã vốn là từ) và cũng không thể (trong trường hợp âm tiết chỉ là hình vị, không thể là từ) “cấp (cho âm tiết là hình vị - NĐT chú thêm) những đặc trưng nào đó về ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp theo những quy tắc nhất định để thành từ đơn”[20,tr.21].
Thiết nghĩ ở đây cũng cần phải nhớ lại luận điểm triết học sau : “Thuộc tính của sự vật chỉ được bộc lộ trong quan hệ với sự vật khác chứ không phải được sinh ra hay được tạo ra trong quan hệ với sự vật khác”! Điều này có nghĩa là khi một âm tiết vốn đã có thuộc tính bản thể là từ thì nó sẽ bộc lộ thuộc tính ấy trong quan hệ với các từ khác khi được sử dụng, nghĩa là nó có thể tự do kết hợp với các từ khác và làm thành phần nào đó trong câu tuỳ theo nội dung ý nghĩa và mục đích giao tiếp, chứ không phải là khi âm tiết này nằm trong quan hệ khi kết hợp với các âm tiết khác trong câu thì nó mới có, mới “được cấp cho” phẩm chất là một từ!
Do đó có thể khẳng định trong số các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt không hề có cái gọi là “phương thức từ hoá hình vị”!
2. Còn đối với cái gọi là “phương thức cấu tạo từ láy” thì sao? Trong tiếng Việt có hay không các “từ láy” và cái phương thức cấu tạo từ này?
Để tiện theo dõi, chúng tôi xin liệt kê ra đây tất cả các loại kết hợp âm tiết có liên quan đến hiện tượng xưa nay được các nhà Việt ngữ học coi là “từ láy”, để từ đó chứng minh tất cả chúng đều không phải là từ láy thực thụ trong tiếng Việt.
a) xinh ® xinh xinh; xanh ® xanh xanh…
b) đỏ ® đo đỏ; nhẹ ® nhè nhẹ; con ® cỏn con…
c) ắp ® ăm ắp; sát ® san sát…
d) luôn luôn, dần dần, thường thường…
e) rầm rầm, oang oang, đoàng đoàng, choang choang…
g) vỗ về; lúng túng, nhỏ nhắn, luẩn quẩn, tủm tỉm, loanh quanh,
mũm mĩm, lệnh khệnh…
Các trường hợp từ a) đến e) xưa nay được các nhà nghiên cứu - dù có chủ trương phân biệt dạng láy của từ với từ láy hay không - đều coi là từ láy toàn bộ, còn các trường hợp ở g) là từ láy bộ phận.
Chúng ta sẽ lần lượt phân tích cụ thể từng trường hợp.
Trước hết là các trường hợp: a) xinh xinh, xanh xanh…; b) đo đỏ, nhè nhẹ...; c) ăm ắp, san sát, …: đây đích thị chỉ là những dạng láy của một yếu tố gốc vốn là tính từ. Vì vậy, theo chúng tôi, chỉ có tính từ mới có dạng láy. Còn danh từ và động từ thì chỉ có dạng lặp (sẽ được bàn đến ở trường hợp d) sau đây). Trong các dạng láy này thì chỉ có yếu tố gốc mang trọng âm, còn yếu tố láy không mang trọng âm. Mô hình trọng âm của những dạng láy trên là: xinh xinh (01), đo đỏ (01), ăm ắp (01), v.v...
Ý nghĩa của các dạng láy này có thể nêu thành quy luật, và do đó không cần phải đưa chúng thành mục từ riêng trong từ điển để giải thích. Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học(Hoàng Phê chủ biên)[36], các dạng láy được để trong mục từ của yếu tố gốc, sau dấu “//” và được giải thích là “ý tăng cường” hay "ý mức độ nhiêù" hoặc “ý giảm nhẹ”, ví dụ: hút : "Sâu, xa đến mức không thể nhìn thấy được cho đến tận cùng.Hang sâu hút tối mù // Láy: hun hút(ý mức độ nhiều)" [36, 2010, tr.608].
Có thể phân các dạng láy này thành hai trường hợp:
Thứ nhất: Nếu dạng láy chứa yếu tố gốc là tính từ có ý nghĩa chỉ mức độ bình thường, trung tính (nghĩa là không cao, không thấp…), thì sự láy lại hoàn toàn theo mô hình trọng âm (01) sẽ tạo dạng láy có ý nghĩa "chỉ mức độ hoặc cường độ thấp với thái độ của người nói là dè dặt, không khẳng định chắc chắn". Xinh xinh có nghĩa là "hơi có vẻ như là xinh", tương tự như vậy: trăng trắng có nghĩa "hơi có vẻ như là trắng".
Thứ hai, nếu dạng láy chứa yếu tố gốc là tính từ có ý nghĩa chỉ mức độ cao (hoặc nhiều) thì sự láy lại hoàn toàn theo mô hình trọng âm (01) sẽ tạo thành dạng láy có ý nghĩa "chỉ mức độ cao, hoặc nhiều với thái độ của người nói là khẳng định chắc chắn". Chẳng hạn: Thẳm vốn có nghĩa "sâu hay xa đến mức hút tầm mắt,nhìn như không thấy đâu là cùng, là tận" [36, 2000,tr.919]. Do đó khi láy hoàn toàn: thăm thẳm có ý nghĩa tăng cường mức độ và người nói có thái độ khẳng định chắc chắn. Ví dụ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
(Quang Dũng - Tây Tiến)
Hoặc ví dụ từ hút và dạng láy của nó là hun hút vừa được dẫn trên đây.
Trường hợp d): luôn luôn, dần dần, thường thường… và cả các trường hợp như người người, ngành ngành,gật gật, cười cười, nói nói, v.v… là dạng lặp của từ đơn, bởi vì cả hai yếu tố đều mang trọng âm (11) và ý nghĩa cả hai yếu tố hoàn toàn như nhau. Đây vốn được coi là phương thức lặp ngữ pháp để biểu hiện ý nghĩa "nhiều"(đối với danh từ), "lặp đi lặp lại có tính chất chu kì", "liên tục"(đối với vị từ, gồm động từ và tính từ). Trong các ngôn ngữ khác, phương thức lặp cũng dùng để biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp số nhiều, ví dụ:
Tiếng Ilakano (ở Philipin): talon "cánh đồng"- talon-talon "những cánh đồng"
Tiếng Mã Lai: orang "một người" - orang-orang " những người"
Trong tiếng Nga, phương thức lặp căn tố có thể được dùng để biểu hiện ý nghĩa so sánh cấp tuyệt đối của tính từ: добрый "tốt bụng", добрый-добрый "tốt bụng nhất"; большoй "to lớn", большoй-большoй "to lớn nhất".
Trường hợp e): rầm rầm, oang oang, đoàng đoàng, choang choang… v.v…thì đây là những từ mô phỏng âm thanh. Còn có thể liệt kê vào đây các từ mô phỏng âm thanh khác có dạng như rì rào, thì thầm, rì rầm, xào xạc ... Như vậy các từ mô phỏng âm thanh trong tiếng Việt có 2 loại nhỏ: a) hai thành tố giống nhau hoàn toàn về âm thanh và ý nghĩa (cùng mô phỏng âm thanh giống nhau: rầm rầm, oang oang, đoàng đoàng, choang choang. Mô hình trọng âm của chúng là (11). Bởi vậy đây cũng là dạng lặp để chỉ "âm thanh liên tiếp); b) hai thành tố chỉ giống nhau phụ âm đầu, nguyên âm khác nhau nhưng không phải là những nguyên âm có cùng độ mở như ở các từ láy ( mà xưa nay các nhà nghiên cứu thường công nhận) : rì rào, thì thầm, rì rầm, đùng đoàng, xào xạc, v.v... Đây là những đơn vị gồm hai thành tố ghép lại, mỗi thành tố mô phỏng một âm thanh trầm bổng, cao thấp khác nhau. Cả hai thành tố đều mang trọng âm (11). Do đó phải coi chúng làtừ ghép đẳng lập (chứ không phải là từ láy), dùng để mô phỏng âm thanh trầm bổng, cao thấp khác nhau, lúc rõ, lúc không. Chứng cớ là nhiều đơn vị trong số chúng cho phép có thể đảo trật tự các thành tố cấu tạo của mình: thì thầm-thầm thì, rì rầm-rầm rì, xào xạc - xạc xào,…
Trường hợp g) xưa nay thường được các nhà nghiên cứu coi là từ láy thực sự. Do vậy chúng tôi tập trung vào chứng minh tính chất “phi từ láy” của các đơn vị này bằng cách chỉ ra nguồn gốc được tạo ra bằng phương thức ghép của chúng.
Các nhà nghiên cứu xưa nay công nhận rằng đối với từ láy âm thì phụ âm đầu của hai âm tiết thành tố là như nhau và các nguyên âm làm thành âm chính của chúng “luôn có sự luân phiên giữa những nguyên âm khác dòng và phổ biến nhất là sự luân phiên giữa những cặp nguyên âm cùng độ mở”[15,tr.90]. Cụ thể như sau:
Dòng
Độ mở
|
trước
|
giữa
|
sau
|
hẹp
|
i
|
ư
|
u
|
|
iê / ia
|
ươ / ưa
|
uô / ua
|
vừa
|
ê
|
ơ / â
|
ô
|
rộng
|
e
|
a / ă
|
o
|
Ví dụ:
+ [i] - [u]: tủm tỉm, mũm mĩm, hú hí...
+ [ô] - [ê]: ngô nghê, hổn hển, xộc xệch...
+ [o] - [e]: cò kè, ho he, hó hé, ngót nghét...
Thực ra, như chúng tôi đã chứng minh, trong tiếng Việt, đặc biệt là tiếng Việt cổ, có phương thức chuyển âm hay biến âm để cấu tạo ra ổ gồm các từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa [43,tr.204]; [45,tr.260-261]. Vì vậy, các đơn vị được gọi là “ từ láy âm”, trong đó hai âm tiết có sự luân phiên giữa những cặp nguyên âm khác dòng cùng độ mở, rất có thể chỉ là sản phẩm của hiện tượng biến âm để tạo từ ấy mà thôi. Chẳng hạn, theo Từ điển tiếng Việt, ho he và hó hé có nghĩa như nhau[36, 2010, tr.574 và 575]. Cả ho và hé đều có nét nghĩa gần nhau "tỏ ra cho người khác thấy bằng tiếng"ho", hoặc lời nói hay cử chỉ…". Có thể phỏng đoán ho hevà hó hé là do ho hé mà ra trên cơ sở đồng hoá để có thanh điệu như nhau.
Đối với từ láy vần thì phụ âm đầu của hai âm tiết thành tố là khác nhau, phần vần giống nhau.
Với quan điểm về từ láy như vậy, các trường hợp như những ví dụ dưới đây đã được các nhà nghiên cứu coi là từ láy âm . Song theo sự chứng minh của chúng tôi thì tất cả chúng đều không phải là những từ láy âm, mà thực ra đó là những từ ghép gồm các âm tiết hoặc do có quan hệ ngữ âm ngẫu nhiên hoặc do quy luật đồng hóa ngữ âm, hoặc do biến thể ngữ âm … mà có. Ví dụ:
+ lung lay (lung có thể do rung mà ra nhờ đồng hóa ngữ âm).
+ thướt tha (là từ ghép do có thể đảo được thành tha thướt)
Trong số 112 trường hợp từ ghép song tiết do đồng hóa ngữ âm nên có dạng giả từ láy âm mà Lê Trung Hoa nêu ở [24] thì các nguyên âm khác nhau đều không phải là có cùng độ mở. Đây thường là những kết hợp gồm 2 âm tiết đồng nghĩa có phụ âm đầu vốn không có quan hệ ngữ âm, song khi ghép với nhau chúng đồng hoá lẫn nhau, khiến các kết hợp song tiết này trở nên có hình thức giống như từ láy âm, ví dụ:
+ nguôi ngoai vốn do nguôi hoai mà ra;
+ đồn đại được biến đổi từ đồn đãi mà ra (do đồng hóa ngữ âm, đãi cũng có nghĩa là "đồn") [24,tr.32] ;
+ mê mết thực ra là từ ghép, do mê mệt mà ra (kết quả của hiện tượng đồng hóa ngữ âm: thanh điệu biến đổi cho cùng âm vực).
Có những trường hợp trong các kết hợp gồm 2 âm tiết đồng nghĩa này, phụ âm đầu có hình thức giống nhau chỉ là do ngẫu nhiên. Ví dụ:
+ bợm bãi (bãi vốn có nghĩa là "người lừa dối") [23, tr.30].
+ tơ tưởng (tơ có nghĩa là "yêu") [23, tr.31].
+ rạng rỡ, rực rỡ: rỡ là yếu tố đồng nghĩa với rực và rạng. Dạng láy của rỡ là rờ rỡ [17,tr.50 - 51].
+ lăn lóc: là từ ghép, vì trong tiếng địa phương Nam Bộ, lóc có nghĩa là "Uốn mình vọt tới hay lấn tới"[39], lócvới nghĩa này còn được thể hiện qua tên gọi cá lóc, hoặc cách nói con cá nó lóc đi nhanh quá [23,tr.50].
+ rúc ráy, rửa ráy : đều là từ ghép, chứ không thể là từ láy. Ráy vừa đồng nghĩa với rúc, vừa gần nghĩa vớirửa [17,tr. 51].
+khoẻ khoắn: khoắn là tiếng Trung Bộ có nghĩa như khoẻ
+mó máy: máy có nghĩa như mó – “cử động để làm cái gì”, ví dụ: Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào(tng)[17,tr.50].
Đáng chú ý là kết quả nghiên cứu về “Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các tiếng trong láy đôi (so sánh với ghép song song)” của Nguyễn Thị Hai [17] đã cho thấy rằng:“ Ở các tổ hợp láy đôi hoàn toàn các tiếng đều có quan hệ đồng nghĩa. Trong các tổ hợp láy vần các tiếng có quan hệ đồng nghĩa hay gần nghĩa. Còn ở các kiểu láy âm, về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các tiếng có nhiều biểu hiện phong phú hơn”[17,tr.58]. Và tác giả khẳng định “ta có thể kết luận được rằng láy đôi về thực chất cũng chính là ghép song song vì các tiếng tạo nên nó vừa có quan hệ cú pháp song song, vừa có quan hệ ngữ nghĩa tương đồng hay đối xứng”[17,tr.59]. Nguyễn Thị Hai cũng “hoàn toàn đồng ý với Cao Xuân Hạo [21] khi xếp láy vào các quan hệ đẳng lập (cũng chính là tổ hợp ghép song song”[17,tr.59]. Song rất đáng tiếc là tác giả lại có sự nhân nhượng, không dứt khoát phủ nhận sự tồn tại của cái gọi là “từ láy” trong tiếng Việt khi cho rằng“nên coi láy đôi là một khu vực đặc biệt của ghép song song. Bởi vì, tuy nó có quan hệ cội nguồn với ghép song song, nhưng khi bộ mặt ngữ âm của nó quá ổn định , tạo thành một cơ chế (chúng tôi nhấn mạnh –NĐT), hiện tượng láy đôi lại ít nhiều có những quy tắc hoạt động riêng của mình”[17,tr.59]. Theo chúng tôi, các đơn vị được gọi là “từ láy” này không hề tạo thành cơ chế riêng biệt nào cả, mà vẫn thuộc cơ chế ghép nghĩa theo quan hệ đẳng lập mà thôi, khác hẳn các dạng láy của từ được tạo ra theo cơ chế láy. Khi giữa hai âm tiết trong các kết hợp song tiết đều có nghĩa thì cần phải coi chúng là các từ ghép chính cống chứ không thể coi là từ láy. Do đó cần dứt khoát phải xếp các đơn vị được gọi là “từ láy” này vào loại từ ghép. Điều này tất dẫn đến kết luận lôgích là trong tiếng Việt không có “từ láy”. Nếu chỉ dựa vào hình thức ngữ âm bên ngoài thuần tuý, bỏ qua bản chất đích thực của các đơn vị mà cứ khẳng định các đơn vị từ vựng ghép này là từ láy thì chính là đã lẫn lộn giữa hai bình diện nhận thức và bản thể của đối tượng được nghiên cứu, là mắc sai lầm về phương diện triết học coi hình thức quyết định nội dung…
Ngoài trường hợp các từ tưởng là từ láy âm, nhưng thực chất là từ ghép hai yếu tố vừa có quan hệ đồng nghĩa, vừa có sự giống nhau ngẫu nhiên về ngữ âm như trên, trong tiếng Việt còn có nhiều trường hợp các từ tưởng là từ láy âm, nhưng thực ra lại là do ghép hai âm tiết biến thể: cùng phụ âm đầu kết hợp với hai biến thể ngữ âm của phần vần, chẳng hạn: xuê xoa (- oa ® -uê trong trường hợp: hoa ® huê), nên xuê là do biến âm của xoa mà ra; tương tự ta còn có xuề xoà, nhuế nhoá…
Đối với loại đơn vị được coi là từ láy vần, theo thống kê của Nguyễn Thiện Giáp thì “khoảng 1/2 tổng số đơn vị láy kiểu này có âm đầu là [l] ở từ láy lại”[15,tr. 89]. Tác giả giải thích hiện tượng này như sau: “Rất có thể vì [l] là một phụ âm bên, đối lập với tất cả các phụ âm còn lại”[15,tr.89]. Đây là hiện tượng hết sức đáng chú ý. Dưới đây chúng tôi sẽ lí giải về hiện tượng này hoàn toàn khác với cách lí giải của Nguyễn Thiện Giáp.
Theo cứ liệu của giáo sư Đỗ Hữu Châu[6,tr.42-43], có thể thấy thường gặp các từ láy vần có những cặp âm đầu được các nhà nghiên cứu gọi là "đối xứng nhau" như: cặp l - nh (lí nhí, lắt nhắt...); cặp l - c (k, q) (lủng củng, luẩn quẩn...); cặp l - th (lơ thơ, lẩn thẩn...); cặp l - t (lúng túng, lè tè...); cặp b - nh (bầy nhầy, bắng nhắng...); c (k, q) - nh (càu nhàu, kèm nhèm...); cặp c(k, q) - r (co ro, kè rè...). Theo số liệu thống kê của Đỗ Hữu Châu, sản phẩm của cơ chế láy này được tạo ra trong mỗi trường hợp chỉ có một số đơn vị rất ít ỏi, một vài đơn vị (thậm chí chỉ có một đơn vị, ví dụ: h - t, như: hấp tấp; x - l: liểng xiểng[6,tr.42-43], thực ra liểng xiểng là từ ghép vì có thể đảo: xiểng liểng…) . Nếu coi đây là cơ chế để tạo từ láy thì thật đáng nghi ngờ, bởi vì nếu đã là cơ chế tạo từ thì phải tạo ra hàng loạt rất nhiều đơn vị như nhau khi cơ chế này cùng tác động đến các yếu tố gốc có tính chất từ vựng - ngữ pháp như nhau. Song thực tế, như đã nêu ở trên, lại không phải như vậy.
Chúng tôi nhận thấy rằng rất dễ dàng có thể truy tìm được nguồn gốc được cấu tạo theo phương thức ghép của các từ vốn xưa nay được coi là từ láy vần có sự đối xứng các phụ âm đầu như nêu trên, trong đó đặc biệt với phụ âm đầu [l]. Khác với cách lí giải trên của Nguyễn Thiện Giáp, theo chúng tôi, sự đối xứng phụ âm đầu của các âm tiết trong các đơn vị được coi là từ láy vần ấy chính là vết tích của một số tổ hợp phụ âm đầu (gọi là phụ âm kép) trong âm tiết của tiếng Việt cổ, trong đó thành tố đứng trước là một phụ âm, còn thành tố đứng sau là [l] hoặc [r]: [bl], [ml], [cl], [tl], [t’l], [br], [cr]…Về vấn đề này, trong công trình của mình - “Một vài vấn đề nghiên cứu so sánh - lịch sử nhóm ngôn ngữ Việt - Mường” mới xuất bản năm 2011, giáo sư Trần Trí Dõi đã chứng minh và xác nhận rằng:“Trong danh sách nói trên (tức danh sách âm đầu được tái lập của tiếng tiền Việt - Mường - NĐT) không có các tổ hợp phụ âm kiểu CC có chức năng làm âm đầu của âm tiết chính(….). Để giải thích cho hiện tượng này, người ta có thể lí giải rằng những tổ hợp phụ âm kiểu [pr], [kl], [bl] v.v. như thế chỉ có thể thấy có ở thời kì hay giai đoạn về sau của các ngôn ngữ Việt - Mường. Chúng chính là hệ quả của sự đơn tiết hoá sau này của tình trạng song tiết tiền Việt - Mường. Tình trạng mà các tổ hợp phụ âm chủ yếu gồm các yếu tố thứ nhất là vô thanh (gồm [p,t,c,k,s,h], trừ trường hợp [ml] sau này ) và yếu tố thứ hai chỉ là âm rung hay lỏng [r,l] (chúng tôi nhấn mạnh – NĐT) đã phần nào chứng minh cho khả năng ấy’’[12,tr.272]. Về sau phụ kép này biến đổi theo những hướng: hoặc rụng thành tố đầu, hoặc rụng thành tố [l], hoặc cả hai thành tố ấy nhập lại tạo thành một phụ âm đơn, kiểu: *tl -> [l], [t],[ʈ]; *bl->[b], [l], [ʐ]; *ml ->[l], [m], [ɲ] v.v. Theo đó, các âm đầu này vẫn kết hợp với cùng bộ phận vần, tạo thành những biến thể ngữ âm khác nhau. Nguyễn Quang Hồng, trong [25,tr.274], cũng đã dẫn nhiều bài viết của các tác giả khác xác nhận các xu hướng biến đổi như vừa nêu của các phụ âm kép này trong âm tiết tiếng Việt cổ. Các âm đầu vốn là những biến thể này vẫn kết hợp với cùng phần vần của âm tiết, tạo ra những âm tiết mới với tư cách là những biến thể ngữ âm của cùng một âm tiết gốc cổ. Do vậy, các kết hợp song tiết tưởng là từ láy vần như vậy thực ra là do hai biến thể ngữ âm của cùng một âm tiết gốc đã được ghép lại với nhau theo quan hệ đẳng lập mà tạo thành để quen thuộc rộng rãi hơn, dễ hiểu hơn, và có giá trị ngữ nghĩa mới đối với người sử dụng ngôn ngữ (kiểu như trường hợp các kết hợp từ vựng gồm hai yếu tố đồng nghĩa, một là thuần Việt, một là từ ngôn ngữ dân tộc thiểu số: gà qué, tre pheo, chó má,v.v…).
Một câu hỏi đặt ra là nếu thế thì tại sao trong các kết hợp song tiết vốn là hai biến thể ngữ âm của một âm tiết cổ ấy âm tiết có phụ âm đầu là [l] thường hay đứng trước, ví dụ: lỉnh kỉnh, lúng túng, lẩm nhẩm, lè nhè, luộm thuộm, lòng thòng, lò cò,v.v…?
Theo ý kiến của chúng tôi, trong hai xu hướng biến đổi của phụ âm kép trong âm tiết tiếng Việt cổ nêu trên, xu hướng rơi rụng bớt một trong hai phụ âm là xu hướng biến đổi đơn giản hơn nên dễ xảy ra trước. Xu hướng hoà nhập hai phụ âm thành một phụ âm đơn khác phức tạp hơn, đòi hỏi phải có một quá trình, nên diễn ra muộn hơn. Do vậy âm tiết có phụ âm đầu là ]l] có trước về mặt lịch sử so với âm tiết có phụ âm đầu không phải [l]. Đó có thể là lí do vì sao trong các kết hợp song tiết gồm hai biến thể ngữ âm của một âm tiết cổ, âm tiết có phụ âm đầu là [l] thường hay đứng trước.
Dưới đây là những ví dụ về sự biến đổi của các phụ âm kép trong tiếng Việt cổ thể hiện khả năng vừa nói ở trên.
1) Kiểu xử lý thứ nhất: [l] + vần (yếu tố đứng trước bị rụng đi). Ví dụ: Việt cổ: [*mlời], Từ điển Việt Bồ La (VBL)[39]: mlời, Việt hiện nay -> lời (trong “lời lẽ”); Mường: [tlời/lơi], Việt cổ: [*blời/tlơi], VBL: blời, Việt hiện nay -> lời(trong “đức chúa lời”); Mường: [laich], Việt cổ: [*mlạt], VBL: mlạt, Việt hiện nay -> lạt (trong “canh lạt”), v.v…
2) Kiểu xử lý thứ hai: Yếu tố thứ nhất + vần (yếu tố [l] bị rụng đi). Ví dụ: Việt cổ: [*mlời], VBL: mlời, Việt hiện nay -> mời (trong “ăn có mời” đồng nghĩa với “ăn có lời”); Mường: [tlời/lơi], Việt cổ: [*blời/tlơi], VBL: blời, Việt hiện nay -> bời/tời (“bời” trong “đức chúa bời”, hay “đức chúa tời” ở thổ ngữ Ninh Bình); Việt cổ: [*tle], VBL:tle, Việt hiện nay -> te (“cây te” (cây tre) ở một số thổ ngữ Thái Bình, Nam Định); Mường: [tlẳng], Việt cổ: [*tlắng], VBL: tláng, Việt hiện nay -> tắng (“màu tắng”(màu trắng) ở một số thổ ngữ Thái Bình, Nam Định), v.v…
3) Kiểu xử lý thứ ba: Tổ hợp hai yếu tố của phụ âm hoà kết biến thành một phụ âm đơn khác. Ví dụ: Việt cổ: [*mlời], Từ điển Việt Bồ La (VBL): mlời, Việt hiện nay -> nhời (trong “có lời/có nhời”); Mường: [tlời/lơi], Việt cổ: [*blời/tlơi], VBL: blời, Việt hiện nay -> giời/trời; Mường: [tlu], Việt cổ: [*tlu], VBL: tlâu, Việt hiện nay -> trâu,v.v….
Do vậy, rất có thể, các trường hợp vốn được coi là từ láy vần loại này thực chất chỉ là sự ghép đẳng lập của hai âm tiết vốn là những biến thể ngữ âm được tạo ra từ các biến thể của âm đầu kết hợp với cùng phần vần trong cùng một âm tiết gốc mà thôi. Chẳng hạn:
+ Cặp l – nh/(m/tr): Ví dụ: *mlảm-> lảm và nhảm, do đó có lảm nhảm; tương tự *mlẩm -> lẩm và nhẩm, nên có lẩm nhẩm…; *mlò -> lò và mò nên có lò mò; *mlè -> lè và nhè, do đó có lè nhè; *mlanh -> lanh vàtr/chanh, nên có lanh tr/chanh; *mlắt -> lắt và nhắt, nên có lắt nhắt; * blàn -> lan và tràn, do đó có lan tràn haytràn lan, v.v…
+ Cặp b/m – l/(nh/tr) : Ví dụ: *blùng -> lùng, bùng và nhùng, nên có lùng bùng, bùng nhùng; *mlung -> mungvà lung, do đó có mung lung hay lung mung; *mláng -> láng, máng và nháng, nên ta có láng máng, láng nháng,v.v…
+ Cặp th/t - l: Ví dụ: *t’luồng -> thuồng và luồng, nên có thuồng luồng; *t’lia -> thia và lia, nên có thia lia; *t’loi-> thoi và loi, do đó có thoi loi, v.v…
+ Cặp l/r – c(k) : Ví dụ: *klò -> lò và cò nên có lò cò; *klông -> lông và công, do đó có lông công; *klanh->lanh và canh, do đó có lanh canh; *kro - > co và ro nên có co ro, v.v...(*)
Ngoài ra, trong tiếng Việt còn có những trường hợp tưởng là từ láy âm, song thực ra đó lại là những cấu tạo ghép theo lối loại suy: Chẳng hạn, từ tính từ nhớp nhúa, có nhà văn đã tạo ra tính từ mới nhám nhúa: "Mấy tiếng nổ chói óc hất cát bụi lên những khuôn mặt nhám nhúa" (VNQĐ, 3/1976, tr.108).Tương tự, dựa theo từ mẫu rau ráu trong ngôn ngữ toàn dân, nhà văn Hồ Phương tạo ra từ mới gau gáu: "Gã công tử bột vẫn xán ở bên cạnh ả, mồm vừa nhai gau gáu cỏ, mắt vừa liếc sang lem lém" (Hồ Phương, Cỏ non, tr. 91).
Hoặc từ cùng khuôn mẫu: “ì ầm”, có thể tạo ra các đơn vị mới bằng cách ghép một số phụ âm đầu khác nhau: thì thầm, rì rầm, sì sầm; từ khuôn vần mẫu “âp ênh”, có thể tạo ra: bấp bênh, cấp kênh, tập tễnh, bập bềnh…
3. Trong công trình Từ đồng nghĩa tiếng Việt, chúng tôi đã chứng minh rằng:" Hoàn toàn có đủ lý do để chúng ta khẳng định hiện tượng làm biến âm của từ dẫn đến sự chuyển dịch về nghĩa của các biến thể, làm cho các biến thể này trở thành những từ mới riêng biệt cũng là một phương thức cấu tạo từ. Chúng tôi gọi đó là phương thức chuyển âm." [43,tr.204]; [45,tr.260-261]. Như vậy, cần phải bổ sung phương thức này vào trong số các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt. Phương thức chuyển âm hay có thể gọi là phương thức biến âm tuy hiện nay có năng lực sản sinh từ mới kém hơn so với các phương thức khác, song có lẽ nó vẫn còn đang phát huy tác dụng ngay cả trong tiếng Việt hiện đại. Chẳng hạn, ss. lầm - nhầm: "Bị sai lầm trong đường lối" (+) và "Bị sai nhầm trong đường lối" (-).Hoặc: nhơ - dơ: "Đó là một vết nhơ trong lịch sử" (+) và "Đó là một vết dơ trong lịch sử" (-) và "Rõ không biết dơ mặt" (+) và "Rõ không biết nhơ mặt" (-). Hiện nay, phương thức chuyển âm / biến âm để tạo từ mới được sử dụng nhiều nhất trong giao tiếp khẩu ngữ hàng ngày. Chẳng hạn, bên cạnh các đơn vị bịa và phịa; trong khẩu ngữ đôi khi người ta còn tạo ra đơn vị mới làkhịa. Nhưng có lẽ phương thức chuyển âm / biến âm nói trên là công cụ rất đắc lực giúp cho các nhà nghệ sĩ ngôn từ tạo ra những đơn vị diễn đạt mới độc đáo, mang dấu ấn riêng của mình.Đặc biệt, phương thức chuyển âm / biến âm còn rất hay được sử dụng để tạo ra những đơn vị được gọi là "nói trại" so với từ gốc với lý do kiêng kị (tabu) vì kém thanh nhã hoặc vì thiêng liêng, sùng kính. Trong trường hợp tạo ra đơn vị trại âm, một hoặc một vài âm của nó được thay thế bằng cách nào đó để một mặt, từ mới này khác với từ cũ vốn bị kiêng kị, mặt khác, nó vẫn bảo toàn được mối liên hệ ngữ âm với từ gốc cũ và dễ nhận ra.
Thí dụ: Trong tiếng Anh: fug (mùi ẩm mốc của buồng đóng kín) > fuk ( g biến thành k).
Trong tiếng Đức: Gotts (chúa Trời) > Potts (G biến thành P).
Trong tiếng Việt, do kiêng huý mà đường được nói chệch thành đàng; bình được nói trại thành bường, v.v…
Rất có thể phương thức chuyển âm / biến âm đã hoạt động mạnh và có năng lực sản sinh lớn trong lịch sử trước đây của tiếng Việt. Dấu vết của hiện tượng chuyển âm cấu tạo từ này có thể nhận thấy khá phổ biến đối với những trường hợp các từ Hán được vay mượn vào tiếng Việt từ đời Đường (gọi là từ Hán - Việt) về sau đã được biến âm khác đi tạo thành từ mới có nghĩa khác với từ Hán - Việt gốc.
Chẳng hạn: 1) trà > chè: Trà có nghĩa "Búp hoặc lá cây chè đã sao, đã chế biến, để pha nước uống: Pha trà. Ấm trà ngon" [36,2000, tr.1019]. Chè có nghĩa: "Cây nhỡ lá có răng cưa, hoa màu trắng, quả có ba múi, trồng để lấy lá, búp, nụ pha nước uống: Hái chè, Pha chè" [36,2000,tr.146].
2)Trảm: "(cũ; kết hợp hạn chế) Chém đầu: Xử trảm" [36,2000, tr.1021]. Chém: "Làm cho đứt bằng cách bổ mạnh lưỡi gươm, dao vào. Chém tre, đẵn gỗ. Chém đầu" [36,2000, tr.147].
Hoặc so sánh các trường hợp khác: phá - vỡ; lực - sức; thanh - xanh; cận - gần; kí - ghi; tiễn - tên; bảo - báu; ngoại - ngoài; tự - từ, v.v...
Xét về thực chất, các kết hợp song tiết tưởng là từ láy vần được xem xét trên đây trong tiếng Việt cũng chính là sản phẩm của phương thức chuyển âm hay biến âm kết hợp với phương thức ghép mà thành.
Khác với Giáo sư Tomita Kenji chỉ thấy hiện tượng biến âm như trên xảy ra trong các ngôn ngữ đơn lập [42,tr.29], chúng tôi nhận thấy rằng trên thực tế hiện tượng biến âm để tạo từ mới này còn xảy ra cả trong các ngôn ngữ biến hình như tiếng Nga chẳng hạn. Chính viện sĩ Iu. X. Xtepanốp đã chỉ ra hiện tượng này: "Sự biến dạng vỏ ngữ âm của từ (...) có một giới hạn là từ đồng nghĩa (...). Một từ phát âm hai cách khác nhau tạo thành hai biến thể ngữ âm của một từ, ví dụ: ýíåðãèÿ (í cứng ) và ýíüåðãèÿ (í mềm ) (năng lượng); êðûíêà - êðèíêà (vò đựng sữa); êàëîøè - ãàëîøè (đôi giày cao su) v.v. Nhưng mấy cặp biến thể này không có một sự khác nhau nào về ý nghĩa, dù rất nhỏ. Những biến thể phức tạp hơn xuất hiện (...). Ở đây đôi khi đã có thể nhận thấy sự khác nhau chút ít về ý nghĩa nhưng còn mơ hồ; đến nỗi khó có thể giải thích thành luật lệ rõ ràng mà chỉ có thể nói là biến thể này thường kết hợp với từ này, còn biến thể kia thì thường kết hợp với từ khác (...). Song trong ngôn ngữ có một khuynh hướng là không bỏ rơi những khả năng có sẵn mà chưa được sử dụng: nếu đã tạo ra hai biến thể khác nhau của từ thì, thường thường, chúng có ý nghĩa khác nhau, mặc dù sự khác nhau về ý nghĩa này dường như chỉ là một tiểu dị. Ở đây sự thay đổi của từ đã đến giới hạn: một bước nữa là trước mắt chúng ta không phải là biến thể của từ mà là một từ mới, từ đồng nghĩa với từ cũ (chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi - NĐT). Chẳng hạn: àíàíàñíûé và àíàíàñîâûé ([thuộc về, bằng] dứa) là những biến thể, còn âåðõèé (trên, ở trên cao, trên cùng...) và âåðõîâíûé (tối cao) (*) l à những từ đồng nghĩa cách nhau đã xa (...)" [50,tr.42].Do vậy, cần phải khẳng định rằng sự chuyển âm hay biến âm kết hợp với biến nghĩa để tạo từ mới cũng là một phương thức cấu tạo từ mang tính phổ quát, cần phải được bổ sung vào lý luận đại cương về các phương thức tạo từ. Chỉ có điều phương thức ấy có tính chất đặc biệt, đóng vai trò và có sức sản sinh không như nhau tuỳ từng ngôn ngữ cụ thể thuộc loại hình khác nhau. Có thể thấy trong những ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt, số lượng vỏ ngữ âm tạo từ rất hạn chế, lại vừa bị bó chặt trong cấu trúc âm tiết nhất định, còn trong ngôn ngữ biến hình thì vỏ ngữ âm của từ có số lượng lớn hơn và cơ động hơn rất nhiều. Cũng lại chính vì có số lượng vỏ âm lớn như vậy mà các ngôn ngữ Ấn-Âu mới biến hình từ được. Cho nên, có lẽ phương thức chuyển âm hay biến âm để tạo ra các từ mới trong các ngôn ngữ đơn lập đóng vai trò quan trọng hơn so với trong những ngôn ngữ biến hình, tương tự như phương thức phụ gia có vai trò cực kỳ quan trọng trong ngôn ngữ biến hình mà lại không có ở tiếng Việt - một trong những ngôn ngữ đơn lập.
Ngoài hai phương thức cơ bản nói trên, tiếng Việt cũng như các ngôn ngữ khác, đặc biệt là các ngôn ngữ có loại hình đơn lập như tiếng Việt, còn có phương thức tạo từ nữa là phương thức chuyển loại, nghĩa là giữ nguyên vỏ ngữ âm của từ, song từ đã có ý nghĩa của một từ loại khác theo cơ chế chuyển nghĩa thường là theo hoán dụ. Ví dụ: cày, bừa, cào, cưa, đục,…(danh từ)-> cày, bừa, cào, cưa, đục,…(động từ).
4. Như vậy trong tiếng Việt chỉ có các phương thức cấu tạo từ sau: phương thức chuyển âm hay biến âm, phương thức chuyển loại - tương tự như hình thức sinh sản vô tính, và phương thức ghép tương tự như phương thức sinh sản hữu tính trong sinh vật học. Tiếng Việt không có cái gọi là “phương thức từ hoá hình vị”. Còn phương thức láy chỉ để tạo ra các dạng láy lâm thời của từ với quy tắc hoà phối ngữ âm chặt chẽ bằng sự chuyển đổi giữa các phụ âm cuối của các âm tiết: p->m; t->n; k-> ng, và các thanh điệu cùng âm vực chuyển hoá lẫn nhau: âm vực cao: ngang, hỏi, sắc; âm vực thấp: huyền , ngã, nặng. Ý nghĩa của các dạng láy của từ được sắc thái hoá theo hướng giảm nhẹ hoặc tăng cường so với nghĩa của yếu tố gốc. Do đó có thể khẳng định tiếng Việt cũng không có phương thức cấu tạo từ láy, nghĩa là tiếng Việt không có từ láy. Hoàng Dũng theo cách tiếp cận và lập luận khác với chúng tôi cũng đã đi đến kết luận:"Tiếng Việt không có từ láy"[13,tr.44]. Các kết hợp song tiết xưa nay bị lầm tưởng là từ láy toàn bộ chẳng qua là sản phẩm của phương thức lặp ngữ pháp biểu hiện ý nghĩa số nhiều, hoặc ý nghĩa “ lặp đi lặp lại có tính chất chu kì hay liên tục”. Còn các kết hợp song tiết xưa nay bị lầm tưởng là từ láy âm hoặc từ láy vần thì chẳng qua chỉ là sản phẩm của phương thức ghép theo quan hệ đẳng lập các âm tiết hoặc có quan hệ ngữ âm ngẫu nhiên, hoặc do đồng hoá ngữ âm mà có, hoặc do cấu tạo từ theo lối ghép loại suy, hoặc là do ghép đẳng lập hai biến thể ngữ âm của cùng một âm tiết gốc. Ở đây một lần nữa chúng ta lại nhận thấy sự lẫn lộn giữa hai bình diện nhận thức và bản thể, lẫn lộn giữa hiện tượng và bản chất khi nhận diện đặc điểm cấu tạo của từ ngữ tiếng Việt ./.
(*) Trong bản dịch từ này được ghi là âåðõîâîé , (I. Thuộc về cưỡi ngựa; II. Người cưỡii ngựa). Chúng tôi nghĩ có sự lầm lẫn ở đây.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS Trần Trí Dõi đã cung cấp thêm cho chúng tôi một số cứ liệu về diễn biến ngữ âm học lịch sử trong tiếng Việt cổ .
TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN
I. Tiếng Việt
1.Võ Bình, Ở bình diện cấu tạo từ xét các kiểu hình vị tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, số 3, 1985.
2.Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt - Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ, Nxb ĐH và THCN, H., 1975.
3.Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt, Nxb KHXH, H., 1979.
4.Đỗ Hữu Châu, Giáo trình Việt ngữ, Tập II (Từ hội học), NXB GD, H., 1962.
5.Đỗ Hữu Châu, Trường từ vựng và hiện tượng đồng nghĩa, trái nghĩa, Ngôn ngữ, số 4/1973.
6.Đỗ Hữu Châu, Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD, H., 1981(tái bản 1996).
7. Đỗ Hữu Châu, Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb KHXH, H., 1986.
8. Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học, Tập II (Ngữ dụng học), Nxb GD, H.,2001.
9. Nguyễn Hiệt Chi – Lê Thước, Sách mẹo tiếng Nam, Lê Văn Tân xuất bản, H. 1935.
10.Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb ĐH & GDCN, H.,1990.
11.Hoàng Cao Cương, Nhận xét về một đặc điểm ngữ âm các từ láy đôi tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, số 4, 1984.
12.Trần Trí Dõi, Một vài vấn đề nghiên cứu so sánh - lịch sử nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, Nxb ĐHQG HN, 2011.
13.Hoàng Dũng, Bàn thêm về vấn đề nhận diện từ láy tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, số 2, 1999
14.Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, Nxb ĐH và THCN, H., 1985.
15.Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt, Nxb GD, H., 1998(tái bản).
16.Nguyễn Thị Thanh Hà & Lan Hương, Thủ pháp nhận diện và phân biệt từ láy với từ ghép có hình thức ngữ âm giống từ láy, T/c Ngôn ngữ, số 7,2000.
17.Nguyễn Thị Hai, Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các tiếng trong láy đôi (so sánh với ghép song song), T/c Ngôn ngữ, số 2,1988.
18.Hoàng Văn Hành, Về hiện tượng láy trong tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, số 2,1979.
19.Hoàng Văn Hành, Từ láy trong tiếng Việt, Nxb KHXH, H., 1985.
20.Hoàng Văn Hành , Từ hoá hình vị, T/c Ngôn ngữ, số 4, 1985
21.Cao Xuân Hạo, Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng, T/c Ngôn ngữ, số2, 1985
22.Phi Tuyết Hinh, Từ láy và sự biểu trưng ngữ âm, T/c Ngôn ngữ, số 3, 1983.
23.Lê Trung Hoa, Tìm hiểu một số thành tố mất nghĩa trong các từ ghép qua cuốn "Dictionarivm Anamittievm, Lusitanvm et Latinvm" của A. de Rhodes, số phụ T/c Ngôn ngữ, số 2,1982.
24.Lê Trung Hoa, Hiện tượng đồng hoá trong một số từ ngữ song tiết tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, số 4,2000.
25.Nguyễn Quang Hồng, Âm tiết và loại hình ngôn ngữ, Nxb KHXH,H., 1994.
26.Trần Trọng Kim-Bùi Kỷ-Phạm Duy Khiêm, Việt Nam văn phạm, Tân Việt.
27. Lưu Vân Lăng, Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt trên quan điểm ngữ đoạn tầng bậc có hạt nhân, T/c Ngôn ngữ, số 3, 1970.
28.Hồ Lê, Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH,H., 1976.
29. Hồ Lê, Về sự phân loại từ ghép song song trong tiếng Việt hiện đại, T/c Ngôn ngữ, số 1, 1973.
30.Lê Văn Lý, Cách thức cấu tạo và tổ hợp của từ ngữ Việt Nam, trong cuốn "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ", tập 2, Nxb KHXH,H., 1981.
31.Lê Phương Nga, Về khái niệm từ đơn, từ ghép, từ láy được dạy ở tiểu học, T/c Giáo dục tiểu học, số 2,1996.
32.Vũ Đức Nghiệu, Về hiện tượng tương tự của từ vựng tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, số 1,1990.
33.Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb KHXH,H., 1985.
34.Đái Xuân Ninh, Hoạt động của từ tiếng Việt, Nxb KHXH,H., 1978.
35.Hoàng Phê, Hoàng Văn Hành, Đào Thản, Sổ tay dùng từ, H., 1980.
36. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2000 và 2010.
37.Nguyễn Anh Quế, Giáo trình lí thuyết tiếng Việt,Trường ĐHTH HN, H., 1976.
38.Hữu Quỳnh, Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo Dục, H., 1980.
39.Rhodes A. de. - Từ điển Annam - Lusitan - Latinh, Nxb KHXH, H., 1991.
40.Nguyễn Kim Thản, Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, Nxb KH,H., 1963.
41.Bùi Đức Tịnh, Việt Nam văn phạm, SG.
42.Tomita Kinji, Một khảo sát về hệ thống sản sinh từ vựng trong tiếng Việt nhằm góp phần nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, số 1,1999.
43.Nguyễn Đức Tồn, Mấy vấn đề lí luận và phương pháp dạy- học từ ngữ tiếng Việt trong nhà trường, Nxb ĐHQG, H., 2003.
44.Nguyễn Đức Tồn, Cần phân biệt hai bình diện nhận thức và bản thể trong nghiên cứu ngôn ngữ học, T/c Ngôn ngữ, số 11, 2003.
45.Nguyễn Đức Tồn, Từ đồng nghĩa tiếng Việt, NXH KHXH, H., 2006
46.Nguyễn Đức Tồn, Đặc trưng văn hoá dân tộc của ngôn ngữ và tư duy,Nxb Từ điển Bách khoa, H., 2010.
47.Nguyễn Văn Tu, Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo Dục, H., 1968.
48.Hoàng Tuệ, Về những từ gọi là “từ láy” trong tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, số 3, 1978.
49.Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb KHXH, H., 1983(tái bản năm 2000). tr. 56-57
50.Xtepanov Ju. S, Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, Nxb ĐH & THCN, H., 1977.
II. Tiếng Anh
51.Asher R. E., The Encyclopedia of language and linguistics, Pergamon, Press, Oxford, New York, Seoul, tokyo, 1994.
52.Lyons J., Introduction to theorical linguistics, London, 1972.
53.Emeneau M.B [Studies in vietnamese grammar, University of California]
III. Tiếng Nga
54.Маркс К. Энгельс Ленин В.И. О диалектическом материализме. М.٫ 1968.
55.Àõìàíîâà Î.Ñ. Ñëâàðü ëèíãâèñòè÷åñêèõ òåðìèíîâ , M.,1966
56.Будагов П. А. Введение в наукy о языке, М., 1958.
57. Касевич В.Б. Элементы общей лингвистики, М., 1977.
58.Реформатский А. А. Введение в языкознание, М., 1960.