CHÂN DUNG THẦY TÔI - GS. NGND. NGUYỄN ĐÌNH CHÚ


16-11-2025

1. Thầy tôi – một người văn Khoa mẫu mực 

   Trong con mắt chúng tôi, giáo sư (GS), Nhà giáo Nhân dân (NGND) Nguyễn Đình Chú là một mẫu người Văn khoa chuẩn mực: đẹp về nhân cách, đẹp về trí tuệ và…rất đẹp lão; gia đình hạnh phúc, thầy cô  song toàn, trường thọ, con cháu giỏi giang, thành đạt…

   Có thể nói ở Thầy, cốt cách Hồng Lam rất đậm. Đó là  phần  tinh hoa của những  trí thức Nghệ nhiều đời: hiếu học, cầu thị, yêu nghề,  cần mẫn, không ngại khó, không sợ khổ, khiêm cung tao nhã, trọng nghĩa tình,  ham mê thú tổ tôm mà vẫn rất  thạo việc chợ búa, củi lửa trong nhà…Từ Thầy luôn toát ra một vẻ đẹp ấm áp và tỏa sáng. Tính tình Thầy cởi mở,  dễ cảm thông, trân trọng và luôn sẵn sàng đón nhận cái mới. Mọi vấn đề đều được Thầy nhìn nhận một cách thấu đáo, đa diện, đa chiều. 

Bộ ảnh 65 năm cuộc tình của vợ chồng giáo sư Nguyễn Đình Chú   Cũng như  nhiều Thầy Cô của khoa Văn thuở ấy, Thầy không chỉ  dạy chúng tôi kiến thức mà còn dạy các trò đạo làm người, dạy  cách ứng xử nhân văn với con người, với thiên nhiên, với xã hội và với  chính mình. Tin  vào  con người  bằng một niềm tin nhân bản, hồn nhiên và luôn đến với họ bằng sự chân thành, Thầy luôn tâm niệm và thường xuyên lan tỏa  niềm tin ấy, như một thứ tâm linh huyền diệu “Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhân”(Trời không phụ  người có lòng tốt) .

   Tôi đã tận mắt chứng kiến không ít lần, Thầy tự tay chăm sóc mẹ già hơn 100 tuổi, săn sóc cô chu đáo, tận tình; đã thấy được  tình cảm của Thầy đối với  con cái và nhất là cái cách  thầy yêu quý ông con rể bác sĩ, giỏi giang, hiếu thuận. Tôi cũng  đã cảm nhận được tấm  lòng nhân ái, sự quan tâm của Thầy đối với đồng nghiệp và lớp lớp học trò.Thầy thường sẵn sàng lắng nghe rồi tìm mọi cách  bao bọc, chở che cho các đồng nghiệp,  sinh viên, gặp cảnh ngộ éo le. Thầy đặc biệt “mát tay” xe duyên và gỡ rối cho bao đôi lứa… Những năm 90 thế kỷ trước, đời sống không mấy dư dả,  thầy cô vẫn nhường cơm sẻ áo cho cánh học trò nghèo, thường xuyên giúp đỡ những người thiệt thòi, yếu thế ngoài xã hội. . .

    Tôi nhớ mãi bữa cơm thịnh soạn Thầy Cô hồ hởi  tự tay nấu mời toàn thể  nghiên cứu sinh và học viên cao học của khoa Văn, lúc Thầy Cô đã có tuổi… Và Thầy chính là tấm gương về tinh thần Học nhi bất yếm, giáo nhân bất quyện(Học không biết chán, dạy người không biết mỏi). Về hưu mà Thầy đâu có nghỉ, vẫn liên tiếp công bố nhiều bài nghiên cứu và công  trình khoa học có giá trị. Năm 2024, Thầy vừa xuất bản cuốn Hôm nay với Nho giáo (NXB Tổng hợp TPHCM). Năm 2023, ở tuổi 95 Thày vẫn lên Xuân Hòa tham dự cuộc ra mắt sách của hai đồng nghiệp mà Thầy trân quý: GS.TS Trần Đình Sử và PGS. TS La Khắc Hòa. Ở tuổi 97, ngày 3/8/2025, Thầy vẫn tham gia Chủ tịch đoàn Hội thảo khoa học”Thơ Đường thời Nguyễn” và  thỉnh thoảng lại lên Facebook trò truyện với mọi người...

   Tấm gương đạo đức, tinh thần lao động hăng say,  cùng những ý tưởng sâu sắc toát ra từ những  bài giảng tâm huyết và các trước tác  của Thầy đã truyền lửa cho lũ hậu sinh chúng tôi hai phẩm chất quan trọng là hiếu học  cầu thị. Chúng tôi càng khát khao muốn hiểu sâu, biết rộng; càng thấm thía hơn về  lòng biết ơn và truyền thống  tôn sư trọng đạo;  biết cách yêu thương con người,  yêu thương học trò khi đọc những bài viết và tận mắt chứng kiến cách ứng xử  của Thầy với những bậc sư phụ uyên bác khả kính như: Đặng Thai Mai, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Cao Xuân Huy, Phạm Huy Thông, Trương Tửu, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Lân, Nguyễn Huy Tý…Thật cảm động, khi đã gần 90, Thầy vẫn cùng các đồng môn  gắng công mang bằng được hài cốt người Thầy: là GS - triết gia nổi tiếng Trần Đức Thảo, từ hải ngoại về quê nhà, rồi xây mộ rất khang trang. Thay mặt các cựu sinh viên ngót 70 năm trước, vị Trưởng tràng Nguyễn Đình Chú đã đọc một bài diễn văn vô cùng thống thiết. Hàng năm các cụ vẫn tổ chức đám giỗ cho người thầy khả kính và  vẫn tha thiết mong ước có được một ngôi trường, hay một con phố ở tỉnh Bắc Ninh  mang tên người Thầy kính mến  của mình.   

2.Thầy tôi - một nhà khoa học nhân văn tâm huyết

2.1. Khái quát về những đóng góp của GS. Nguyễn Đình Chú

   Gần hai phần ba thế kỷ chuyên tâm  giảng dạy, nghiên cứu  văn học trung- cận đại,  GS. Nguyễn Đình Chú đã hướng dẫn thành công 16 luận án tiến sĩ,  hàng trăm luận văn thạc sĩ và đã góp phần đào tạo cho đất nước một đội ngũ rất đông đảo những nhà giáo dạy văn giỏi, các  nhà  khoa học, các nhà quản lý giáo dục  tên tuổi  và không ít văn nghệ sĩ  nổi tiếng …GS cũng đã xuất bản hơn 30 đầu sách có giá trị, đã tham gia nhiều công trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp nhà nước ...

Nguyễn Du thiên tài - Vấn đề đã quen mà còn lạ - GS.NGND. Nguyễn Đình Chú

Là chuyên gia hàng đầu  của giai đoạn văn học 1858 – 1930, GS đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, với không ít phát hiện  quý báu, mới mẻ về  văn học sử  và  các tác gia lớn của giai đoạn văn học này. Đó là những đóng góp có ý nghĩa đặt nền móng cho sự phát triển của nền  văn học nước nhà giai đoạn có tính chất bản lề, trên cả hai phương diện: định hướng và  tư duy khoa học, giúp  người học và độc giả  có thể giải mã được không ít giá trị  thơ văn Trung – cận  đại.

Bằng  độ nhạy cảm của một nhà giáo  dạy văn giàu trải nghiệm và tư duy của một học giả  am tường  triết học và văn hóa học, GS đã  sớm phát hiện ra những vấn đề trọng tâm của văn chương và  cuộc sống,  đã có thể  gọi đích danh đối tượng, và chỉ ra  những giá trị loại biệt của từng đối tượng nghiên cứu. 

Ví dụ: Trần Tế Xương  “một nhà thơ tiên phong và cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất trong việc viết về người thực việc thực...Thơ ông bất chấp sự băng hoại của thời gian bởi văn học nằm ngoài những quy luật của sự băng hoại “ (1). Còn đóng góp quan trọng nhất của cụ Tam Nguyên Yên Đổ, theo GS không chỉ là tài làm thơ về làng cảnh Việt Nam mà là ở cái tình quê đậm đà và khả năng Việt hóa Đường thi một cách điêu luyện. Phan Bội Châu có thứ văn chương dậy sóng sục sôi tâm huyết, thức tỉnh lòng yêu nước của đồng bào . Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ trữ tình - đạo đức, người đứng đầu  thể loại văn tế…Luận điểm này của GS đã giúp không ít người học và độc giả thay đổi quan niệm về con người và thơ của cụ Đồ Chiểu. 

Với bậc học phổ thông, vai trò của Thầy rất rõ vì Thầy không chỉ là người  tham gia  đào tạo, viết giáo trình, viết hướng dẫn giảng dạy mà còn là chủ biên nhiều sách giáo khoa ngành văn cho các lớp 6, 10, 11… 

Với bậc đại học từ những năm 70 của thế kỷ trước, Thầy đã có những định hướng đúng đắn: “Đã là giáo viên đại học thì không thể không kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học mà  kết quả là viết ra để trình làng”(Văn hóa – Văn học – Giáo dục, tr. 18. Những dẫn chứng dưới đây đều lấy từ cuốn sách này)Đồng thời, Thầy cũng cho rằng,  phải  phá vỡ thế độc canh trong nghiên cứu, bên cạnh nghiên cứu sâu là việc mở rộng phạm vi nghiên cứu: “Nghiên cứu văn học Việt Nam trung - cận đại không thể không quan tâm tìm hiểu về nền văn học Việt Nam, về tư tưởng, văn hóa Việt Nam nói chung. Kể cả phần văn hóa , tư tưởng phương Đông, đặc biệt là Trung Hoa vốn có quan hệ máu thịt với với tư tưởng  và văn học Việt Nam ở thời Trung đại(SDD, Tr.18).

Từ những trang viết tâm huyết của Thầy  toát lên tư tưởng và bút pháp  của một nhà khoa học nhân văn đáng kính. 

Khảo sát cuốn sách tuyển chọn Văn hóa – Văn học – Giáo dục của Thầy, ta thấy: dường như đối tượng luôn được tác giả  tiếp cận dưới góc nhìn văn hóa, góc  nhìn triết học và  luôn được gắn bó  chặt chẽ với thực tiễn, với nghề dạy học.

 Chính việc lựa chọn điểm nhìn  phù hợp đã  giúp GS  luôn phát hiện  ra được  những  điều mới mẻ trong các đối tượng tưởng  như đã quen và tạo nên   một lối viết không “tầm chương trích cú”, không trích dẫn quá nhiều lý luận, không nặng về lý thuyết mà giản dị, sâu sắc, cùng một thái độ không cực đoan trong tranh luận.

 2.2.Mấy nét về bút pháp của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chú

2.2.1 . Nghiên cứu  đối tượng từ góc nhìn văn hóa

Nhờ  được soi chiếu  dưới  góc nhìn văn hóa nên dường như  mọi vấn đề đã được nhìn nhận một cách công bằng, sâu sắc, thấu tình, đạt lý theo chiều hướng mở.  

Chẳng hạn, khi nghiên cứu về Triều Nguyễn, tác giả đã đưa ra những đánh giá  mới mẻ, khoa học, chính xác về công và tội, về vị trí  triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc. Theo GS, không ai làm lại được lịch sử nhưng phải luôn có nhận thức lại lịch sử. Trong bài viết Triều Nguyễn và văn hóa Triều Nguyễntác giả đã khẳng định,  việc Pháp xâm lược Việt Nam nằm trong xu thế tất yếu của cuộc đụng độ Đông – Tây; đồng thời cho rằng, triều Nguyễn  không chỉ có tội mà  còn có công trong việc phát triển phương diện văn hóa, văn học nghệ thuật, có công lao mở  mang bờ cõi, phát triển nền  kinh tế đất nước. Nhất là những vị vua có tài như Minh Mạng, Tự Đức. Theo GS: “Họ Nguyễn  dưới  thời nhà Nguyễn là một dòng họ văn hóa bề thế hiếm có”(2, tr. 350)

Dưới góc nhìn văn hóa,  GS không chỉ thấy lãnh tụ Hồ Chí Minh “ với tư cách nhà chính trị lỗi lạc, một anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại theo nghĩa đơn giản là cứu đất nước thoát khỏi  họa xâm lăng”(2,  tr. 177),  mà còn phát hiện ra, Bác vĩ đại vì Người  là một nhà văn hóa của tương lai: “Hồ Chí Minh cùng một lúc  trở thành  một nhà chính  trị  lỗi lạc, một lãnh tụ kiểu  mới của dân tộc, cũng  trở thành  một nhà văn hóa kiểu mới” (2, tr.506). 

Về  vấn đề gia đình và dòng họ:  chùm 4 bài viết của GS đã  làm rõ vai trò to lớn của văn hóa dòng họ,  những mặt tích cực của văn hóa dòng họ  đối với  quốc gia, dân tộc: “Văn hóa dòng họ một khi lên ngôi đã trở thành trụ cột của văn hóa làng. Có trường hợp còn là trụ cột  của văn hóa vùng miền, thậm chí còn là cả văn hóa dân tộc” (2,  tr. 29).. Chính các luận điểm  quan trọng của  tác  giả  đã góp phần tháo gỡ không ít  lúng túng  khi  những vấn đề  phản văn hóa  đang ồ ạt xuất hiện trong đời sống hiện thời. 

2. 2.2. Nghiên cứu đối tượng từ góc nhìn triết học 

Góc nhìn triết học giúp GS luôn nhìn mọi vấn đề một cách tường minh và “có khả năng phát hiện, làm sáng tỏ hơn những quy luật của cuộc sống để từ đó tìm ra cách vừa thích nghi vừa hạn chế mặt trái của quy luật vốn có hai mặt đó”(2,  tr. 224).

 Ông hiểu rằng, “Đến với thế giới con người thì có nhiều hướng nhưng hướng có hiệu quả nhất vẫn là triết học”(2, tr. 40). Vì thế phải: “Làm sao phát triển được tư duy triết học. Bởi có nó thì mới nhận thức cuộc sống ở  độ sâu sắc nhất, bản chất nhất (2, tr 46). Còn “Với người nghiên cứu văn học mà không có tư duy triết học thì việc nghiên cứu văn chương cũng nông cạn mà thôi”(2, tr. 47). GS luôn khẳng định, tư duy là cái gốc của mọi vấn đề, nhất là trong xã hội hiện đại vì : “Thời đại ngày nay là thời đại của tinh thần duy lý; tư duy cá thể, tư duy phản biện, tư duy đối thoại, tư duy thuyết phục, tư duy lựa chọn…đang thay thế tư duy cảm tính, tư duy áp đặt, tư duy phục tùng. Đồng thời, mọi người phải có tư duy pháp luật, dĩ nhiên pháp luật phải xây dựng trên nền tảng nhân bản và dân chủ”(tr.38 )

 Trong các bài viết của mình,  GS đặc biệt đánh giá cao phẩm chất tư duy của con người. Theo tác giả, tư duy là vấn đề căn cốt nhất,  vậy nên:  “Nâng cao phẩm chất tư duy  - cái gốc của mọi vấn đề”(2, tr. 918). Tư duy luận đã giúp GS phát hiện ra bản chất và các quy luật vận động của cuộc sống, phát hiện ra“những vấn đề thiên về lịch sử tư tưởng”(2, tr 89). Chẳng hạn:  “Việt Nam có hai điều đáng tự hào: Thứ nhất, truyền thống chống xâm lăng với tên tuổi của các nhà ái quốc. Thứ hai, Trong văn chương có thiên tài”(tr. ). 

“Chế độ Phong kiến cáo chung là tất  yếu theo quy luật phát triển xã hội, nhưng…đây là chế độ phong kiến đức trị, khác với tư tưởng phong kiến nói chung. Trong đó có tư tưởng thân dân khá sâu sắc mà hậu thế đã biết nhưng chưa cảm nhận đúng tầm giá trị của nó ”(2, tr. 30) .

“Cuộc sống vốn có hai quy luật: độc lập (Independent) và  phụ thuộc lẫn nhau(Interdependant).Hòa nhập  chính là biểu hiện của quy luật phụ thuộc lẫn nhau để phát triển “(2, tr.68)

  Nhìn cuộc sống qua lăng kính của  triết học, với cái nhìn biện chứng,  GS không bao giờ  phủ định sạch trơn mà luôn đề cao tính kế thừa: “Trong việc xây dựng nền đạo lý hiện đại…có hai thái độ cần tránh. Thứ nhất là thái độ sùng bái phương Tây. Thứ hai, ngược lại là chê bai phương Tây một cách thiếu tỉnh táo, thiếu khách quan”(2,  tr. 63). Việc Pháp xâm lược, GS cho rằng, “Đây là quy luật thuộc tương quan mạnh yếu. Mạnh nên áp đảo được. Yếu nên bị áp đảo. Có điều là phía mạnh không phải cái gì cũng hay, vẫn có cái dở. Yếu không phải cái gì cũng dở, vẫn có cái hay”( 2, tr. 20) 

Bên cạnh việc đánh giá cao  những giá trị tích cực của truyền thống, của các học thuyết  Phật giáo, Nho giáo, của đời sống tâm linh, tác giả không quên  chỉ ra những hạn chế của mỗi triết thuyết. Theo GS: “ “Phật giáo có khi được coi là quốc giáo đã gắn kết văn hóa dân tộc và theo quốc sách là Tam giáo đồng nguyên  mà tạo dựng cho đất nước những giá trị tinh thần cao diệu” (2. tr.25). “Ở phương Đông và Việt Nam thời Trung cận đại có đời sống tâm linh rất đậm đà”. “Nho giáo là một học thuyết nhập thế tích cực và rất bền vững. Đặc biệt có tính trội trong việc góp phần xây dựng nhân cách con người. Tất nhiên Nho giáo  không phải là không có hạn chế” (2, Tr. 24) .  Để làm sáng tỏ luận điểm này,  tác đi sâu phân tích mặt tích cực và hạn chế  của Thuyết Thiên tử và tiểu nhân,  thuyết thiên mệnh, đạo luân thường của Nho giáo… rồi chỉ ra những điều hôm nay cần phải kế thừa trong quá trình  xây dựng đạo đức xã hội.

Góc nhìn triết học giúp người viết luôn đi tìm tới ngọn nguồn của vấn đề và luôn thường trực một tinh thần phản biện. Chẳng hạn,  bàn về  công cuộc đổi mới nền văn học dân tộc sau 1986, GS bắt đầu từ  cái gốc của văn chương để tìm ra  cái gốc của  đổi mới. Đặt thành tựu của công cuộc đổi mới trong tương quan với những thời kỳ văn học trước đó , GS đã chỉ ra rất trúng thành tựu và hạn chế của giai đoạn  văn học hiện nay:  “Trong sáng tác có những đóng góp  đáng ghi nhận của văn học sau 1986.Trong đó sự trỗi dậy của  cảm hứng hiện thực phê phán và sự trỗi dậy của con người cá nhân cá thể tuy chưa  tạo được thành quả nghệ thuật  như cái Tôi trong Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ Mới của thế kỷ trước.Về lý thuyết  thì phải nói rằng, ở nước ta chưa bao giờ có sự chuyển hóa, gia tăng hệ hình lý thuyết sôi động như hôm nay… Nhất định là phải đổi mới nhưng đổi mới thế nào là chính đáng là cần thiết?(2, Tr. 722). Đồng thời đã  đặt ra hàng loạt câu hỏi đích đáng: “Trong đổi mới sự trỗi dậy của cái tôi – cá thể (L individu) là rất cần thiết nhưng phân biệt thế nào cho thật tường minh cái tôi chân chính cần khuyến khích ? Phân biệt thế nào là cái  tôi phi nhân bản- kéo con người trở về động vật. Quan hệ giữa mới và cũ như thế nào? Bởi trong đổi mới  đã tạo ra những giá trị mới nhưng sẽ có những giá trị vĩnh hằng và cái tôi ích  kỷ cần tiêu diệt”(2. tr. 774)

Điều thú vị là: chính trên cơ sở tư duy triết học, GS  đã phát hiện ra chiều sâu, giá trị  độc đáo của “Thiên cổ kỳ bút”Người con gái Nam Xương(Nguyễn Dữ). Theo tác giả, tư tưởng mỹ học của tác phẩm nằm trong quy luật của muôn đời giống như nàng Desdemona trong bi kịch Othello của nhân loại. Vì thế, không đổ lỗi cho chiến tranh, hay chế độ phong kiến hà khắc trọng nam khinh nữ, cũng không tại sự ngây thơ của bé Đản, bi kịch của nàng Vũ Thị Thiết nằm ở ngay  trong vùng tối của sự ghen tuông đố kỵ. Qua ý nghĩa của hình tượng cái bóng, tác giả đã cảnh tỉnh con người: hãy cảnh giác với chính mình, hãy tỉnh táo trong ứng xử để không bị cái bản năng dẫn đi, làm tổn hại những người thân yêu và phá hoại hạnh phúc gia đình của chính mình. 

2.2.3. Nghiên cứu  đối tượng trong mối quan hệ  gắn bó chặt chẽ với  đời sống thực tiễn 

Là người  yêu nghề và rất  yêu khoa Ngữ Văn,  gắn bó với Khoa Văn, với ngành giáo dục, trong lưu bút mở đầu cuốn kỷ yếu  nhân kỷ niệm 70 năm thành lập khoa Ngữ Văn (1951 – 2021), GS đã viết những dòng gan ruột:

            Khoa văn / Thánh địa của tôi / Sinh địa của tôi / Đất hứa của tôi

    Luôn “Gắn bó và sống với sự nghiệp giáo dục”(SDD, tr. 39)  nên hầu như những nghiên cứu của GS Nguyễn Đình Chú (dù là vấn đề vĩ mô hay vi mô, dù thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục hay văn học) đều xuất phát từ yêu cầu của đời sống, đều  có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với cuộc sống, với nghề dạy học, với sự nghiệp giáo dục. Sau hai phần ba thế kỷ lao động sáng tạo, GS đặc biệt quan tâm là những vấn đề bức xúc có tầm vĩ mô mang tính tư tưởng của đời sống văn hóa xã hội, là những vấn đề nổi cộm của nghề  nghiệp mà ông đang theo đuổi và tận hiến. 

    Hàng loạt bài viết gần đây của tác giả  như: Sứ mệnh cao cả của văn chương trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện đại, Khoa học xã hội nhân văn với  nền giáo dục hiện thời của đất nước, Thế nào là đổi mới tư duy, Đạo đức muôn đời vẫn là cội rễ của văn chương chân chính, Thử bàn về tư duy triết học trong nhận thức văn học, Thử bàn về vai trò của Phật giáo trong thời đại  công nghiệp 4.0,  Nâng cao phẩm chất tư duy - cái gốc của mọi vấn đềlà những minh chứng về sự không ngừng tìm tòi sáng tạo của nhà khoa học, là minh chứng về mối quan hệ giữa văn hóa, văn học và đời sống hiện tồn.

     Bên cạnh  những vấn đề có tầm vĩ mô, GS cũng không quên các vấn đề tưởng  nhỏ mà không hề nhỏ : sự xuống cấp đáng báo động của đạo đức xã hội, sự mất cân bằng giữa cái tôi và cái ta,  cái xây và cái chống, sự nhạt phai của tình Thầy – trò,  vấn đề sex trong văn học nghệ thuật, vấn đề thế nào là hạnh phúc…

    Điều mà GS trăn trở nhiều nhất là “làm sao xoay chuyển một nền giáo dục từ học để biết sang một nền giáo dục để biết, để làm, để  sống cho ra sống với bản thân và với đất nước (2, tr. 42, 43). Theo GS: “Một đất nước muốn phát triển bề thế vững bền nhất thiết phải có một nền tảng khoa học xã hội vững chăc. Với giáo dục cũng vậy, dù cho giáo dục công nghệ thông tin hiện đại và ngoại ngữ là  là mũi nhọn nhưng cũng không thể là nền tảng. Nền tảng để phát triển giáo dục vững chắc vẫn là khoa học xã hội và nhân văn(2. Tr. 43)

 Đọc những trước tác của  GS, NGND. Nguyễn Đình Chú - người một đời tâm huyết với nghề, ta thấy đó là  những bài viết sâu sắc,  mang tính chất tổng kết, với những phát hiện quý báu. Bởi Thầy  đã  tiếp cận đối tượng dưới góc nhìn văn hóa, góc nhìn triết học và luôn gắn  chúng với đời sống một cách chặt chẽ. Đằng sau những trang viết tâm huyết của Thầy, người đọc có thể tiếp thu được một phương pháp luận vững vàng trong nghiên cứu khoa học. 

Với  các thế hệ sinh viên chúng tôi, Thầy là một người Văn khoa mẫu mực, một nhà khoa học Xã hội Nhân văn bền bỉ, nhiệt huyết với nhiều đóng góp cho nền Văn hóa – Văn học – Giáo dục nước nhà . 

                      TƯ LIỆU THAM KHẢO

1.  Nguyễn Đình Chú, Tế Xương – bậc thần thơ thánh chữ, in trong Tú Xương thơ và đời, NXB Văn học, 1996, tr. 367 - 377)

2. Nguyễn Đình Chú, Văn hóa, văn học, giáo dục(Tuyển chọn những bài viết của GS. Nguyễn Đình Chú sau 1975), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2017.

 

PGS. TS. Trần Thị Trâm (cựu sinh viên khoa Ngữ văn)

Bài viết đã đăng trên Tạp chí Văn Hiến số tháng 9 + 10/2025

 

 

 

 

 

 

Post by: Khoa Ngữ văn
16-11-2025