Nghiên cứu khoa học

TỪ "THI NGÔN CHÍ" ĐẾN THUYẾT "MỸ THỨ" ĐỜI HÁN


15-10-2020
Tác giả: Nguyễn Đình Phúc

I. “Thi ngôn chí” - Hình thành, ý nghĩa

Thiên Thuấn Điển trong sách Thượng thư có đoạn chép:

Đế viết: Quỳ, mệnh nhữ điển nhạc, giáo trụ tử trực nhi ôn, khoan nhi lật, cương nhi vô ngược, giản nhi vô ngạo. Thi ngôn chí, ca vịnh ngôn, ... Nghĩa là: Này ông Quỳ, ta giao cho ông quản âm nhạc, ông hãy dùng nó để dạy con em, để chúng trở thành người chính trực ôn nhu, rộng lượng kiên nghị, cứng cỏi mà không thô bạo, giản dị mà không ngạo mạn. Thơ dùng để nói chí, ca dùng để ngân dài lời thơ,...

Trên đây là lời của vua Thuấn nói với quan cai quản âm nhạc là ông Quỳ, cũng là tài liệu đề cập đến "thi ngôn chí" sớm nhất hiện còn. Thuyết "ngôn chí" không phải duy nhất có ở Thượng thư, trong sách vở thời Tiên Tần, thuyết này xuất hiện không ít. Tả truyện, Tương Công năm thứ 27, trong lời Văn Tử nói với Thúc Hướng có câu: Thi dĩ ngôn chí (thơ là để bày tỏ chí hướng); Lễ ký chương Nhạc ký có câu: Thi, ngôn kỳ chí dã, mục Trọng Ni nhàn cư ghi lời Khổng Tử có câu: Chí chi sở chí, thi diệc chí yên (Chí đến đâu thì thi đến đấy); sách Trang Tử thiên Thiên hạ có câu: Thi dĩ đạo chí (thơ là để nói chí); sách Tuân Tử mục Nho hiệu có câu: Thi ngôn thị kỳ chí dã (thơ là để nói cái chí của mình vậy), v.v... Với những cứ liệu đã nêu, chứng tỏ thuyết "thi ngôn chí" đương thời đã hết sức phổ biến.

"Thi ngôn chí" quan trọng ở "chí". Vậy "chí" là gì ? "Chí" bao hàm những nội dung gì ? Thứ nhất, từ góc độ từ nguyên, "chí" có nghĩa tương đồng với "thi". Ở đời Hán, người ta đa số lấy "chí" để giải thích "thi". Hứa Thận trong Ngôn bộ sách Thuyết văn giải tự viết: Thi, chí dã. Chí phát vu ngôn, tùng ngôn, tự thanh (Thi, chí vậy. Thơ là chí phát ra lời, trong đó chữ "ngôn" biểu nghĩa, chữ "tự" biểu âm). Trịnh Huyền chú Thượng thư chương Hồng phạm mục Ngũ hành truyện nói: "Thi chi ngôn, chí dã". Cao Dụ chú Lã thị xuân thu mục Thận đại lãm nói: "Thi, chí dã ". Vương Dật chú Cửu chương sách Sở từ mục Bi hồi phong cũng nói: "Thi, chí dã". Học giả Trung Quốc cận đại Dương Thụ Đạt trong Thích thi nói: "Chữ 'chí' lấy chữ 'tâm' làm nghĩa, chữ 'sĩ' làm thanh. Ba chữ 'sĩ', 'chí' và 'tự' thời cổ âm đọc không khác nhau..., lấy chữ 'sĩ' coi là chữ 'chí', hoặc lấy chữ 'tự' coi là chữ 'chí', thực cũng như phép giả tá mà thôi". Ông lại căn cứ vào câu của Hàn Tuyên Tử "phú bất xuất Trịnh chí" trong Tả Truyện, Chiêu Công năm thứ 16, cho rằng "Trịnh chí" tức "Trịnh thi", và kết luận hai chữ "thi", "chí" thời cổ dùng thông nhau, đây cũng chính là lý do Hứa Thận lấy "chí" để thích "thi". (Xem Tích Vi Cư Tiểu học kim thạch luận tùng, quyển 1). Văn Nhất Đa trong Ca dữ thi cũng cho rằng "thi" và "chí" vốn chỉ là một chữ, đồng thời nói thêm: "Chữ 'chí' có phần trên là chữ 'chỉ'. Trong Bốc từ, chữ 'chỉ' được viết với chữ 'chỉ' ở trên, chữ 'nhất' ở dưới, giống như hình bàn chân người dừng trên mặt đất, vậy nên 'chỉ' có nghĩa dừng lại". Ông lại nói: "Chữ 'chí' có phần trên là 'chỉ', phần dưới là 'tâm' có nghĩa dừng ở trong lòng. Dừng ở trong lòng cũng có thể nói là cất giữ (tàng) ở trong lòng". Sách Tuân tử chương Giải tế nói: Chí dã giả, tàng dã (nghĩa của chữ 'chí' là chữ 'tàng' vậy). Phía sau có thêm lời chú rằng: Tại tâm vi chí (ở trong lòng là chí), đây cũng như nói: "tàng tại tâm lý" (cất giữ trong lòng). Cho nên Thi tự sớ nói: Uẩn tàng tại tâm vị chi chí (cất giữ ở trong lòng gọi là chí). Mao thi tự nói càng rõ hơn: Thi giả, tại tâm vi chí, phát ngôn vi thi (thơ, ở trong lòng là chí, phát ra lời là thơ).

Thứ hai, vì "chí" có nghĩa dừng ở trong lòng, hoặc cất giữ ở trong lòng, thế nên trong một số sách vở đời Tần, Hán, "chí" thường được giải thích với hai chữ "tình" và "ý". Thái Thúc đáp Triệu Giản Tử hỏi về lễ trong Tả truyện, Chiêu Công năm thứ 25 nói: "Dân có hiếu, ố, hỷ, nộ, ai, lạc, ấy đều từ lục khí mà ra. Vậy nên loại nào đặt theo loại ấy, chế thành lục chí". Khổng Dĩnh Đạt trong Chính nghĩa nói: " Lễ ký gọi lục chí này là lục tình. ở mình là tình, tình động là chí, tình và chí thực cũng như nhau". Sách Lễ ký chương Học ký có câu: "Nhất niên thị ly kinh biện chí". Trịnh Huyền chú: Biện chí vị biệt kỳ tâm ý sở xu hướng dã [Biện chí tức phân biệt rõ nơi mà lòng người (tâm ý) hướng tới]. Trịnh Huyền chú câu: "Thi ngôn chí, ca vĩnh ngôn" trong Thuấn điển nói: Thi sở dĩ ngôn nhân chi chí ý dã; vĩnh, trường dã; ca hựu sở dĩ trường ngôn thi chi ý (Thơ dùng để biểu đạt ý chí của con người; chữ vĩnh có nghĩa kéo dài, ca dùng để ngân dài lời thơ). Sách Quảng nhã mục Thích ngôn nói: "Thi, ý dã". Hán thư mục Tư Mã Thiên truyện dẫn lời Đổng Trọng Thư: Thi dĩ đạt ý (Thơ là để biểu đạt ý). Từ những chú thích trên, có thể thấy, "chí" bao hàm "tình" và "ý", cũng chính là tình cảm và ý chí trong lòng nhà thơ. Thế nên, "ngôn chí" không ngoài "ngôn tình" và "ngôn ý". Cần phải chỉ ra rằng, "chí", "tình", "ý" là những khái niệm hoàn toàn tương đồng, "chí" có thể chỉ là "tình", hoặc có thể chỉ là "ý", cũng có thể bao hàm cả hai. Điều này có nghĩa, trong một tác phẩm thơ, thi nhân có thể chỉ nói "tình", có thể chỉ nói "ý", cũng có thể biểu đạt cả "tình" lẫn "ý".

Về ý nghĩa của "chí", Văn Nhất Đa trong Thi dữ ca từ góc độ khác khảo sát tỉ mỉ hơn. Ông nói: "Chí có ba nét nghĩa: một là ký ức (trí nhớ), hai là ghi chép và ba là hoài bão. Ba nghĩa này đại biểu cho ba giai đoạn phát triển chủ yếu của thi ca".

Thứ nhất, "thi" đã là "chí", "chí" lại tàng (cất giữ) ở trong lòng, vậy nên, "thi" hoặc "chí" chính là ký ức. Họ Văn nói: "Thơ vốn ra đời trước chữ viết (văn tự), đương thời người ta dựa vào ký ức, thông qua truyền miệng để lưu hành thi tác. Thơ sở dĩ có vần, hình thức câu gãy gọn, ấy chẳng phải để tiện cho ghi nhớ và diễn xướng (ký tụng) sao ? Cho nên, đương thời thơ đôi khi cũng có người gọi thơ là "tụng". Như vậy, hình thức cổ nhất của thơ cũng chính là những khẩu quyết còn truyền đến ngày nay, kiểu như Bách gia tính, Tứ ngôn tạp tự, v.v...

Thứ hai, sau khi chữ viết ra đời, sự tiện lợi của chữ viết nhanh chóng thay thế vị trí của ký ức, "ký ức được gọi là chí, ghi chép cũng được gọi là chí. Thời cổ, mọi ghi chép đều được gọi chung là "chí" (xem Thi dữ ca). Sách Quản Tử mục Sơn quyền số nói: Thi sở dĩ chí vật dã (thơ ghi chép sự vật). Giả Nghị trong Tân thư mục Đạo đức thuyết có câu: Thi giả, chí đức chi lý nhi minh kỳ chỉ, lệnh nhân duyên chi dĩ tự thành dã. Cố viết: Thi giả, thử chi chí giả dã (thơ dùng để ghi đức và làm rõ điều mà đức muốn nói, để cho người đời căn cứ vào đó mà tự trau dồi. Vậy nên nói: Thi là những ghi chép về đức vậy). Vô luận "chí vật" hay "chí đức", cả hai không ngoài nghĩa ghi chép, ký lục. Ngoài ra, trong sách vở đời Tiên Tần, hai chữ "chí vân": [đồng nghĩa với "thi vân": (thơ rằng:)] xuất hiện không dưới mười lần, đều chỉ sách vở ghi chép nói chung, hơn nữa lời dẫn ở dưới đều là văn vần. Từ những điều đã nêu, có thể kết luận, ghi chép chính là nét nghĩa thứ hai của chí (hoặc thơ).

Thứ ba, đồng thời với quá trình trên, sự phát triển nhanh chóng của xã hội và nhu cầu bức thiết của xã hội với việc cải tiến ngôn ngữ thúc đẩy sự ra đời của tản văn. Tản văn ra đời cùng với xu hướng thay thế thi ca ở lĩnh vực ghi chép và thuyết lý đã đẩy mạnh quá trình chuyên môn hóa của thi ca. Từ đây, tính tự sự và ký lục trong thơ giảm dần, nhường chỗ cho "tình" và "ý". Quá trình này tiếp diễn đến khi thuật ngữ "thi ngôn chí" hoàn toàn được xã hội công nhận, "chí" được dùng để chuyên chỉ việc biểu đạt hoài bão, tức "tình" và "ý" của thi nhân. Đây chính là nét nghĩa thứ ba của chí (hoặc thơ).

Như đã xét, ý nghĩa của "chí" vô cùng phong phú, nó có thể là "tình" là "ý", hoặc bao hàm cả hai, hay nói như Văn Nhất Đa, "chí" cùng lúc bao hàm ký ức, ký lục và hoài bão. Trước hết, theo chúng tôi, khảo sát của họ Văn chỉ có ý nghĩa về mặt thi sử, tức thi ca từ khởi nguyên đến khi có sự chuyên môn hóa cùng với ý nghĩa khác nhau của "chí" ở từng giai đoạn. Điều này, chính họ Văn cũng thừa nhận. Thứ hai, kết quả khảo sát "chí" bao gồm "tình", "ý" ở trên, thực chất chỉ là cái nhìn tổng quan không mang tính cụ thể cho bất kỳ giai đoạn nào. Trong suốt quá trình dài phát triển của thi ca, "chí" mang tính thời đại sâu sắc. Nếu thi ca từ Ngụy Tấn đến Đường để lại dấu ấn bởi thuyết "duyên tình", thì thơ Tống đặc biệt chú trọng về "lý" (ý). Nếu thi ca đời Minh là cuộc trỗi dậy của thi nhân nhằm vào thành trì Tống học, thì thi ca đời Thanh là sự nở rộ của nhiều khuynh hướng sau khi cái "tình", tức tình cảm cá nhân có cơ hội được giải phóng. Dưới đây chúng tôi sẽ tập trung lý giải sự biến thiên cũng như nội dung của "chí" từ khởi nguyên đến đời Hán.

II. Từ “dĩ ý nghịch chí” của Mạnh Tử đến thuyết “mỹ thứ” đời Hán

Như chúng ta đã biết, "chí" trong "thi ngôn chí" ở Thuấn điển và trong "thi dĩ ngôn chí" ở Tả truyện hoàn toàn không hạn định ở nội dung, có chăng chẳng qua chỉ là chỉ rõ thơ là biểu hiện của tâm hồn thi nhân, chứ hoàn toàn không mang nghĩa cụ thể, kiểu như tái hiện, mô phỏng tự nhiên, hay sự khúc xạ của ý niệm, v.v... Thời Xuân Thu xuất hiện thêm thuật ngữ "phú thi dĩ ngôn chí". Thuật ngữ này chuyên chỉ thói quen trích dẫn thi ca biểu đạt ý chí của các nhà ngoại giao thời Xuân Thu. Hoạt động này theo Nghệ văn chí sách Hán thư nói là có thể: biệt hiền bất tiếu nhi quan thịnh suy yên (phân biệt kẻ hiền người ngu và xem lẽ thịnh suy của một nước). Thế nên "chí" ở đây có thể là "hiền", có thể là "bất tiếu"; có thể phản ánh "thịnh", cũng có thể phản ánh "suy". Cuối thời Xuân Thu, Khổng Tử đem "chí" đặt trong phạm trù nhân tính, đồng thời hạn định khái niệm này trong phạm vi "nhân nghĩa". Đối với Kinh Thi, Khổng Tử nói: Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết tư vô tà (Kinh Thi hơn ba trăm bài, ta có thể lấy một câu để khái quát, ấy là "suy nghĩ trong sáng, không có tà vạy") (xem Vi chánh sách Luận ngữ). "Tư vô tà" thực ra chính là nhân nghĩa. Đến Mạnh Tử, trong Vạn Chương thượng sách Mạnh Tử, ông nói: "Việc luận thơ không nên lấy văn hại từ, không nên lấy từ hại chí, nên lấy ý mình truy ngược đến chí của nhà thơ ("dĩ ý nghịch chí"), như vậy mới thực sự nắm bắt được ý của tác giả". Triệu Kỳ chú đoạn trên nói: "Nhân tình bất viễn, dĩ kỷ ý nghịch thi nhân chi chí, thị vi đắc kỳ thực hỹ". Chú giải của họ Triệu rõ ràng đã nắm bắt được nội dung Nhân tính luận của Mạnh Tử. "Nhân tình bất viễn", ấy chính là "tâm" mà người người đều có. Bởi người người đều có "tâm", nên mới có việc lấy "kỷ ý" để truy ngược đến "thi nhân chi chí". "Dĩ ý nghịch chí" mà Mạnh Tử đưa ra là bước ngoặt của tư tưởng văn học Trung Quốc, từ đây yêu cầu với "thi nhân chi chí" hay "thi nhân chi tâm" bắt đầu được đặt ra. Yêu cầu này có thể khái quát thành hai chữ "chân" và "chính". Từ "chân" đến "chính" và "chân", "chính" hội thông với nhau, nói chung gồm hai bước: Thứ nhất, nhà thơ cần tĩnh hóa "kỳ tâm", sao cho lòng mình trong sáng, đạt đến độ thuần "chân". Khi ấy "chí" mà thi nhân biểu đạt sẽ là "xích tử chi tâm (tấm lòng trẻ thơ), hay "đồng tâm". Lòng người một khi đạt đến "xích tử chi tâm", tất yếu "tâm" ấy sẽ "vô tà", "chân" cũng sẽ là "chính". Vương Quốc Duy trong Nhân gian từ thoại nói: "Nhà thơ chủ quan, không cần nhiều kinh nghiệm ở đời, kinh nghiệm càng ít thì tính tình càng "chân", chính được hiểu theo ý trên. Thứ hai, nhà thơ cần đem lòng mình (kỳ tâm) hòa cùng "tâm" xã hội, hay "tâm" nhân loại, khi ấy, "chí" mà nhà thơ biểu đạt không chỉ là sự cùng thông của cá nhân, mà còn là sự vui buồn của đại chúng. Tác phẩm như thế không chỉ có cá tính mà còn có tính xã hội. Sự kết hợp giữa cá tính và tính xã hội chính là sự dung hợp giữa "chân" và "chính". Khổng Dĩnh Đạt trong Mao thi chính nghĩa quyển 1 sớ giải câu: "Thị dĩ nhất quốc chi sự, hệ nhất nhân chi bổn" trong Mao thi tự rằng: "Một người, kẻ ấy làm thơ, điều mà hắn nói trong thơ chỉ là "nhất nhân chi tâm" mà thôi. Muốn nói về một người, mà cái 'tâm' ấy lại là 'nhất quốc chi tâm', thi nhân cần đem ý nguyện của một nước coi là cái 'tâm' của mình (kỷ tâm)... Viết về việc trong thiên hạ thì cần tổng hợp "thiên hạ chi tâm", cộng thêm khảo sát phong tục khắp chốn, coi đó là ý mình, sau đó tập trung ca ngợi nền chính giáo của đế vương". Đây chính là lời sớ nói rõ nhất ý trên. "Chính" mà không "chân", ắt chẳng phải là "chính" thật; "chân" mà không "chính" cũng chẳng phải là "chân" thật. Duy có sự dung hợp của "chân" và "chính" trong cùng một tác phẩm mới là đạt đến cái "tâm" chung, cái "tâm" mà người người cùng có, mới là tác phẩm vĩ đại. Tư tưởng nêu trên cũng chính là tư tưởng cơ bản của văn học cổ đại Trung Quốc.

Tư tưởng của Mạnh Tử trên đây sang đời Hán vẫn được kế thừa và tiếp tục phát triển, nhưng ảnh hưởng bởi một trật tự chuyên chế khác xa trật tự xã hội Tiên Tần, thế nên cùng một nội dung nhưng xuất hiện không ít điểm khác biệt. Xã hội đời Hán so với Xuân Thu - Chiến Quốc là một cuộc đại nhất thống đặt dưới sự chuyên chế của một vị vua. Điều này được Giả Sơn phản ánh trong Chí ngôn: "Cơn lôi đình đến, không gì không gãy đổ; vạn cân ập xuống, không gì không nát vụn. Nay uy chúa không chỉ là lôi đình; sức nặng, không chỉ là vạn cân vậy" (xem Toàn Hán văn, quyển 14). Giữa lý tưởng (đạo) và uy chúa (thế), Hán nho phải xử trí sao cho không tới nỗi phải rời bỏ lý tưởng để "tòng thế" (theo đời). Giải quyết mối quan hệ phức tạp này, một mặt về chủ quan, Hán nho cần có dũng khí và đảm lược dám "xả thân gián chúa", mặt khác về mặt khách quan cũng cần tạo dư luận khiến cho mọi người (bao gồm cả giai cấp thống trị) thừa nhận và tiếp thu tư tưởng "đạo" cao hơn, tôn quí hơn "thế". Nói cho đúng, "nhân nghĩa" cao hơn chính trị, chính trị trong bất kỳ tình huống nào đều phải phụ thuộc vào nhân nghĩa.

Đặc trưng xã hội của đời Hán có ảnh hưởng sâu sắc đến thi luận, đặc biệt ở sự lý giải "thi nhân chi chí" (chí của nhà thơ). Trình Đình Tộ trong Thi luận thập tam mục Tái luận thứ thi nói: Hán nho ngôn thi, bất quá mỹ thứ nhị đoan (Hán nho luận thơ, chẳng qua chú trọng hai mặt 'mỹ' và 'thứ'). "Thi" ở đây chủ yếu được hiểu là Kinh Thi, bởi giai đoạn này ngoài Kinh Thi ra, thành tựu của Nhạc phủ cũng chưa đáng kể. Đời Hán làm truyện cho Kinh Thi chủ yếu gồm ba nhà Tề (Viên Cố), Lỗ (Thân Công) và Hàn (Hàn Anh), Mao Thi chủ yếu lưu hành trong dân gian, chưa được lập vào học quan. Sách Hán thư, Nho lâm truyện chép: "Hàn Anh vì muốn truy ý của các nhà thơ, nên viết cuốn (Hàn thi) Nội ngoại truyện mấy vạn chữ". Ban Cố nói tiếp: "Sách ấy tuy lời lẽ khác xa truyện của Viên Cố và Thân Công, nhưng cả ba nhà đều 'quy nhất' vậy". Vương Tiên Khiêm đời Thanh trong Thi tam gia nghĩa tập sớ mục Tự lệ nói: "'Quy nhất' là nói truyện của ba nhà về 'đại chỉ' là không khác nhau mà thôi". ở đây "quy nhất", "đại chỉ" chính là nói truyện của ba nhà Tề, Lỗ và Hàn (có thể kể cả Mao truyện) mặc dù văn tự, chú giải khác nhau, nhưng "ý" mà họ cùng truy (theo đuổi), "chí" mà họ cùng "nghịch" (truy ngược) đều như nhau, tức "mỹ thứ", "phúng gián". ở đây "mỹ" mang nghĩa ca ngợi, ca công tụng đức của đế vương; "thứ" có nghĩa phúng gián, can gián, chỉ sự uyển chuyển ôn nhu trong cách can gián của kẻ dưới với bề trên, cụ thể của kẻ làm tôi can gián bậc quân vương. "Mỹ thứ" là sản phẩm của Hán nho, dùng để quy định nội dung của "chí", đó thực chất là những viên gạch mới trên cái nền cũ "dĩ ý nghịch chí" của Mạnh Tử. Điều này Vương Quốc Duy trong Ngọc Khê Sinh niên biểu hội tiên tự chỉ rõ: "Đến khi Trịnh Huyền xuất thế, chuyên dùng thuyết của Mạnh Tử để trị Thi. Với Kinh Thi , họ Trịnh đã soạn Phổ, lại soạn thêm Tiên. Phổ dùng để 'tri nhân luận thế'; Tiên dùng để 'nghịch' chí của thi nhân" (xem Quan Đường tập lâm, quyển 23). Trịnh Huyền trong Lục nghệ luận nói: "Thơ là lời ca phúng tụng, từ khi thư khế (văn tự) hưng khởi, sùng thượng giản dị, khi ấy ca ngợi mà không đến nỗi xu nịnh, can gián mà không đến nỗi phỉ báng. Quân thần đối đãi với nhau như bằng hữu, được vậy là nhờ ở sự thành khẩn mà thôi. Đạo ấy vừa suy, gian thần nghịch tặc liền nổi lên, trật tự trên dưới đảo lộn. Đến khi phục hồi lễ chế, vua quý tôi khinh, đạo quân tôn nghiêm, đạo thần nhu nhuận. Thế nên, kẻ dám can gián trong triều ít đi, tình chí không nơi thổ lộ, thi nhân vì đó làm thơ, mục đích là để ca ngợi điều thiện, phê phán cái ác". Lời của họ Trịnh trên đây có thể coi là tổng kết của thi luận đời Hán. Rõ ràng "quân thần đối đãi với nhau như bằng hữu" là thực trạng xã hội thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu), còn "vua (quân) quý tôi khinh" là thực trạng của xã hội Tần Hán, thời mà Trịnh Huyền đang sống. ở đây, họ Trịnh thực đã lý giải nguyên nhân về sự quy định "mỹ thứ" đối với khái niệm "chí" của thi luận đời Hán.

Đặc trưng của xã hội đời Hán không chỉ ảnh hưởng đến nội dung của thơ, mà còn ảnh hưởng đến hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống văn học đương thời. ở những lĩnh vực này, hầu như bất kỳ tác giả nào khi đề cập đến chủ ý sáng tác đều không nằm ngoài hai nội dung "mỹ thứ". Ở đây lấy Sở từ chương cú của Vương Dật làm ví dụ: Ly Tao Kinh tự gọi Ly Tao là "đem chính đạo để can gián vua"; Cửu ca tự nói: "Trên trình bày sự kính sợ trong việc thờ thần, dưới biểu đạt nỗi uất ức của bản thân, lấy đó để làm phương tiện phúng gián vậy". Cửu biện tự viết về Cửu Chương rằng: "Phúng gián Hoài vương, chủ ý làm cho Hoài vương thấy lời của mình là hợp với lẽ trời đất, có thể đi theo con đường ấy"; Chiêu hồn tự nói: "Ngoài thì kể điều xấu xa trong thiên hạ, trong thì ca ngợi ưu điểm của nước Sở, lấy đó để phúng gián Hoài vương, mong Hoài vương giác ngộ mà quay về đường chính"; Tích thệ tự nói: "Khiển trách Hoài vương có thủy mà không có chung"; v.v... Có thể nói, ở đời Hán, "mỹ thứ" là nội dung không chỉ của thơ mà còn là của bất kỳ lĩnh vực nào thuộc đời sống văn học, đây cũng là điểm khác biệt nổi bật của Thi luận đời Hán với Thi luận các giai đoạn sau.

Từ "thi ngôn chí" đến thuyết "mỹ thứ" đời Hán là giai đoạn đầu tiên, cũng là giai đoạn mang tính định hình hết sức quan trọng của thi ca từ sau khi có sự chuyên môn hóa về nội dung lẫn phương thức phản ánh. Việc đem thơ gắn liền với chính trị và phục vụ chính trị tuy gây tổn hại không ít đến văn học, nhưng đương thời không phải không có ý nghĩa tích cực. Về vấn đề này, chúng tôi hy vọng sẽ có một dịp khác để bàn luận.

N.Đ.P

Duyphi62

THƠ CHỮ HÁN
HOÀNG VĂN HOÈ

DUY PHI

Hoàng Văn Hòe (1848 - ?), hiệu Cổ Lâm, biệt hiệu Hạc Nhân, quê gốc Phù Lưu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông đỗ Tiến sĩ năm Tự Đức thứ 33 (1880), năm sau lại đậu khoa Yêm bác làm quan đến chức Thị độc triều Nguyễn.

Ông sáng tác nhiều, nhất là thơ chữ Hán. Thơ chữ Hán của Hoàng Văn Hòe được tập hợp trong di cảo Hạc nhân tùng ngôn. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858 - 1920) tập IV, quyển Một, của nhóm Lê Thước (Nxb. Văn hóa - Viện Văn học) có dịch đôi ba bài thơ của Hoàng Văn Hòe và nhận định: “ Hạc nhân tùng ngôn ghi lại sự u uất của ông trước cảnh nước mất và lâm vào cảnh lầm than của nhân dân”. Một số công trình khác khi đề cập tới Hoàng Văn Hòe cũng từng nhận định rằng: Tài năng ông sớm bộc lộ, ông là người có chí khí yêu nước... Một số bậc túc nho đọc Hạc Nhân tùng ngôn đã từng khen ngợi “thơ hay nhưng cực khó dịch, chữ viết lại như rồng bay phượng múa, người đời này không mấy người đọc thông hiểu đầy đủ…”. Hậu duệ của Tiến sĩ Hoàng Văn Hòe cũng đã nhiều lần nhờ một số nhà Hán học dịch cho Hạc Nhân tùng ngôn, nhưng do văn bản khó đọc, nên kể từ khi Hạc Nhân tùng ngôn ra đời, trên một trăm năm chưa có một công trình dịch thuật, khảo cứu nào xứng đáng.

Trong Lời tựa, Hoàng Thụy Liên (em ruột tác giả) có ghi rõ: Hoàng Văn Hòe sinh ra thông minh dĩnh ngộ khác thường, lên bảy tuổi đã đọc Hán thư …Sự phát lộ như chí hướng này cũng thể hiện trong thơ của ông như: Bài IX, Giang quán khiển hứng, khi viết về kỷ niệm thời niên thiếu:

Thời trắc thôi ngôi lập bích thiên
Tinh du nhân vị học thần tiên

(Trèo lên chỗ núi cao ngất đứng nhìn trời xanh biếc.
Vẫn cho rằng lên đó để học phép tiên).(1)

Chí lớn của Hoàng Văn Hòe luôn hướng về phía bách tính (trăm họ). Chỉ thấy nước sông (ở Huế) hôm qua ngọt, nay bỗng mặn, ông cảm nhận được sự kỳ diệu của thiên nhiên, hình như có ai đó đã ra lệnh cho cả một khúc sông dài này thay đổi. Từ đó ông nghĩ, tấm lòng tốt của ông, sao không được tỏa ra nghìn dặm với mây trắng, cứ phải sống cô trung, u uẩn:

Chỉ hữu tâm hương nhân bất đắc
Triển khai thiên lý bạch vân hàm.
 (Giang thủy)

(Chỉ tiếc lòng thơm thảo của con người, không thể
Mở ra nghìn dặm nỗi niềm cùng mây trắng).

Nét tâm hồn này, có sự tương đồng với niềm ước mong có áo rộng muôn dặm của Bạch Cư Dị và ước muốn nước cỏ lan thơm được chia cho bốn biển trong Đoan Ngọ nhật của Nguyễn Trãi:

Nguyện bả lan thang phân tứ hải
Tòng kim táo tuyết cựu ô dân

(Nguyện đem nước thang lan chia khắp bốn biển
Từ nay rửa sạch những nhớp nhơ xưa cho dân).

Khát vọng lớn lao của Hoàng Văn Hòe còn bộc lộ trong nhiều bài thơ khác. Hương giang dạ phiếm chu (Đêm dạo thuyền trên sông Hương), buông cần câu cá, mặt sông sao trời in lấp lánh, ông nhấc cần lên ngỡ câu được cả sao Ngưu, sao Đẩu:

Tinh thần ba diện sam si kiến
Ngộ bả trường can điếu Đẩu, Ngưu.

(Trăng sao trên mặt sóng bồng bềnh lên xuống
Ngỡ nhấc cần, câu được cả sao Đẩu, sao Ngưu).

Với chí hướng kiên trinh, ông rất tâm đắc với ý tưởng xưa “bái thạch vi huynh”:

Hợp tri sơn khả tỉ
Hoàn bái thạch vi huynh
(Ấp nhân Nguyễn Sinh Đắc)

(Hợp biết núi cũng dời đi được
Về lạy đá làm anh).

Có gì bền bỉ hơn khối đá đứng trơ trọi giữa trời đất, bốn mùa nắng mưa sương tuyết. Lạy đá, tôn đá làm anh, ông noi gương đá, dốc sức tu luyện thành tài. Song cũng như Nguyễn Du, ông quan niệm “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, nên ông luôn hướng tới điều thiện, làm việc tâm đức:

Khắc phục nhân do kỷ
Tàng tu học dưỡng tài
Thiện tư đa vãn tựu
Đốc vật tất nhân tài
Lạc sự phù luân tự
Tâm tâm tự khổng hoài
(Dạ ẩm ngâm khúc - I)

(Chữ nhân muốn được là do mình
Ẩn dật tu thân nuôi tài chí
Chăm lo làm nhiều điều thiện
Không bao giờ muộn
Dốc sức ắt thành người tài
Sự việc gì cũng phải giữ lấy luân thường
Tâm - đức tự mình nhớ suốt đời).

Hoàng Văn Hòe có nhiều bài thơ ca ngợi về quê hương đất nước. Với Kinh Bắc quê gốc, ông viết Đăng Phật Tích sơn (Lên núi Phật Tích), Du Phật Tích sơn ngộ vũ … (Chơi núi Phật tích gặp mưa…) Cổ Pháp lâm hành (Đi trong rừng Cổ Pháp)… Với Hà Nội, nơi ông nhiều năm học hành rèn luyện, có các bài: Quái nễ (Quái lạ…), Hiểu phát Hà Nội phóng chu … (Sáng sớm ở Hà Nội phóng thuyền…), Đề Cổ Loa miếu (Đề thơ ở miếu Cổ Loa)… Với Huế, ông viết An Định chu thứ (Thuyền qua An Định), Tân Tỵ nguyên nhật triều hồi kỷ sự (Ngày mồng một tết Tân Tỵ ở triều về ghi lại)… Ông có nhiều bài thơ về các loại hoa: Hoa sen, hoa phù dung, hoa thủy tiên, hoa cúc . Ngắm hoa cúc vàng ( Hoàng cúc ) ông chợt nhớ mình yêu cúc vàng hơn nhiều thứ hoa khác vì Hoàng cúc cùng họ Hoàng với ông, chung điểm cao quý, thanh khiết:

Thu lai lôi tước dục sinh trần
Vạn đóa phù kim bất liệu bần
Mạc quái bình sinh thiên ái cúc
Cúc hoa nguyên điểm tính Hoàng nhân

(Thu sang tẩy bụi, rượu nồng
Vàng suông vạn đóa, khốn cùng chưa vơi
Bình sinh yêu lắm, cúc ơi !
Cúc hoa nguyên nét với người Hoàng đây).

Đất nước mênh mông, nhiều danh lam thắng cảnh, hầu như đi đến đâu ông cũng có thơ ( Diễn Châu thành, Mã giang dạ bạc …), nhưng thơ vịnh cảnh của ông luôn đau đáu một nỗi niềm tâm sự. Đến thăm đền Kiếp Bạc, ông kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của vị anh hùng dân tộc. Ông ca ngợi Trần Hưng Đạo là người có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông:

Đại vương khởi duy huân liệt cao
Trung hiếu nhất sinh chân quốc trụ
Nộ lạt bất dung ngỗ nghịch nhi
Thử tâm tự túc dĩ thiên cổ

(Chỉ có đại vương là người có công cao hơn cả
Một đời trung hiếu trụ cột của đất nước
Người từng giận, không dung sự ngỗ nghịch của con trẻ
Tấm lòng ấy đủ lưu thiên cổ).

Đọc những vần thơ trong Hữu Dược Sơn viên (Bên sườn Dược Sơn), ta bỗng nhớ đến chi tiết ghi trong lịch sử. Trần Liễu (sinh ra Trần Quốc Tuấn - Hưng Đạo Đại vương) thù hận với Trần Cảnh (sinh ra Trần Quang Khải) vì theo sự thu xếp của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh lấy vợ của Trần Liễu (anh ruột). Trần Liễu từng đem quân làm loạn. Sau này, Trần Quốc Tảng (con thứ của Trần Quốc Tuấn) có ý bàn với cha nên cướp ngôi của chi thứ. Ông nổi giận rút gươm toan chém chết Quốc Tảng và nói “Từ nay cho đến khi nhắm mắt, ta sẽ không nhìn mặt thằng nghịch tử này nữa”.(2)

Trần Quốc Tuấn đã chủ động hoà hiếu với Trần Quang Khải tạo sự thống nhất ý chí trong toàn bộ vương triều Trần. Hình ảnh Trần Hưng Đạo rực sáng trong tâm trí ông, trong thơ ông.

Khác với hòa khí khi viết Hữu Dược Sơn viên, trong Đề Cổ Loa miếu, về những năm tháng do không cảnh tỉnh mà nước Âu Lạc bị Triệu Đà xâm chiếm, nhớ mối tình oan trái Mỵ Châu - Trọng Thủy, bên Giếng Ngọc, giọng thơ ông ngậm ngùi chua xót:

Bằng lan tạm kí man du hứng
Tẩy ngọc trì biên tư võng nhiên

(Tựa lan can, tạm ghi lại niềm hứng khởi tản mạn
Bên ao rửa ngọc, nghĩ thêm đau xót).

Đi thăm các di tích, ôn lại bao trang sử bi hùng, tâm hồn ông như được tiếp thêm ngọn lửa.

Một điểm khác, thơ Hoàng Văn Hòe không chỉ ca ngợi những nhân vật lịch sử lớn lao, những vùng đất nổi tiếng, ông còn viết nhiều cảnh quê, với những con người bình dị: Lý Hòa hải ngạn (Bờ biển Lý Hòa), Đồng hãn Lê lão thỉnh thi đề (Thơ đề tặng ông họ Lê cùng làng), Tặng Cối giang lão nhân (Tặng ông già bên sông Cối)…

Với lòng yêu nước thương dân như vậy, trước cảnh giặc xâm chiếm đốt phá, tàn sát, Hoàng Văn Hòe đứng ngay về phía những người yêu nước, chủ chiến để bảo vệ sơn hà xã tắc. Ông vô cùng đau xót trước cảnh tang tóc. Mười năm bốn bể còn binh lửa - Vạn xóm ngàn thôn lút cỏ lau ( Cảm tập đỗ - I ). Trong bài Cảm tập đỗ - II, ông còn vạch rõ bản chất thực dân, xâm lược của giặc. Ông dùng hình ảnh cáo vàng (chỉ dân ta) bị cáo trắng (chỉ giặc) đến chiếm chỗ. Thỏ cũ (chỉ dân ta) nhiều tang thương và ngay cả thỏ mới (chỉ giặc) chẳng sung sướng gì, chúng cũng luôn kêu oan khổ vì bị lôi cuốn vào một cuộc chiến tranh phi nghĩa, nhiều tên cũng phải bỏ mạng… Thấy đất nước bỗng trải cơn dâu bể, nhiều nơi máu chảy thành sông, ông không nén được nỗi lòng, phải thốt lên bằng những câu thơ sa lệ:

Cổ vãng kim lai cộng nhất thần
Bi kiến sinh nhai bách ưu tập

Dịch thơ:

Cũ qua mới đến triền miên
Thương thay kế sống rộn nghìn mối lo…

Căm thù giặc và thương dân như vậy, nhưng ông nghĩ: Trời ở trên cao xa, mờ mịt. Những chỗ tối tăm đâu thấy được ánh sáng (Liểu nhiên thiên giới cao, Hà u bất kiến chúc, Tập đào II). Lúc này ông không theo được ý nguyện xưa của mình là ẩn dật tu thân nuôi tài chí (Tàng du học dưỡng tài) mà trái lại không như với một số nhà thơ yêu nước, ông đã trực tiếp tham gia xung trận. Sau khi thi đỗ Cử nhân ba năm, giặc Pháp tấn công Hà Nội, ông đã cùng quân triều đình đánh giặc, nhằm giải vây cho Hà thành. Trong Hạc nhân tùng ngôn ông viết: “Năm Quý Dậu (1873) Hà thành hữu sự. Lúc bấy giờ, tôi mộ quân đi theo quân thứ”.

Tháng 4 năm 1882, hai năm sau khi ông đậu Tiến sĩ, giặc Pháp đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ hai. Lúc đó, ông đang làm Tri phủ Kiến Xương (Thái Bình), ông đã khảng khái trả lại ấn, đi theo quân thứ. Về Bắc Ninh, Hoàng Văn Hòe đã liên hệ ngay với Nguyễn Cao (Cách Bi - Quế Dương), Nguyễn Thiện Thuật (lãnh tụ khởi nghĩa Bãi Sậy) và nhiều sĩ phu Bắc Hà khác, lập tuyến phòng thủ dài tới ba cây số để đối phó với mưu đồ đánh chiếm thành Bắc Ninh của giặc. Những ngày giặc tiến đánh thành Bắc Ninh, Hoàng Văn Hòe thường xuyên có mặt trong thành để chỉ huy chiến đấu và động viên binh sĩ. Song do chiến thuật và vũ khí lạc hậu, thành Bắc Ninh bị thất thủ.

Thời kỳ này triều đình Huế có hai phe: chủ chiến và chủ hòa. Tôn Thất Thuyết cầm đầu phe chủ chiến. Thấy Hoàng Văn Hòe là người kiên quyết chống Pháp, Tôn Thất Thuyết đã vời ông vào Huế làm việc với danh nghĩa chức Sử quán Tu biên, nhưng thực chất là để tăng cường tướng lĩnh cho phe chủ chiến. Năm Ất Dậu (1885), Hoàng Văn Hòe tham gia vào vụ chính biến, tấn công vào đồn Pháp tại kinh thành Huế, sau đó hộ giá vua Hàm Nghi ra sơn phòng Nghệ Tĩnh… Và cũng từ đó, không có tư liệu nào thêm về Hoàng Văn Hòe nữa! (3)

Đọc thơ, không chỉ biết nội dung, mà còn thụ cảm được chiều sâu của hình tượng, ngôn ngữ. Bài thơ tứ tuyệt Giang quán khiển hứng – VII của Hoàng Văn Hòe có nhiều nét mới lạ:

Sổ khúc lan tường xuân thủy thâm
Thổ âm Thái tạp Nông âm
Khấu huyền ngã dục ca tường họa
Liêu họa dương hoa cách ngạn âm.

Mái chèo khỏe, chèo thuyền lượn theo nước sông xuân sâu thăm thẳm. Nghe (thuyền bên) những tiếng địa phương nửa là tiếng Thái nửa là tiếng Nùng - hai câu đầu chỉ là sự mô tả bình thường cảnh vật. Đến hai câu sau:

Gõ thuyền ta ca, mong có tiếng ca ai đó vọng lại
Chỉ có hoa dương liễu họa lại ở phía Nam sông.

Tác giả ca, mong có tiếng ca đối đáp một tâm hồn nghệ sĩ. Nhưng rồi chẳng có tiếng ai vọng lại, chỉ có đám dương liễu phía Nam sông: Cây đó hay người đó? Mà mỗi lần gõ nhịp ca, cành lá họa lại bằng cách rung lên, lả tả rụng hoa… Bài thơ này cấu tứ chặt chẽ và có nét tinh tế của thơ hiện đại.

Câu thơ “Tối hỉ sơ dương hậu” trong bài Tĩnh Gia tảo phát, cứ theo Kinh Dịch mà hiểu thì sơ dương đâu chỉ là mặt trời mọc. Ý tứ trong thơ Hoàng Văn Hòe rất sâu rộng. Thời nào cũng vậy, thiên hạ thường đề cao cái tâm, nhưng Hoàng Văn Hòe cho rằng: Có một tấm lòng tốt đâu phải đã là đủ ( Nhất phiến tâm nhưng vị khẳng long ).

Có nhiều câu thơ thể hiện ông có một năng lực quan sát kì lạ:

Tùng trúc tứ vi bình tháp ảnh
Lâu đài nhất thốc đảo ba tâm
(Đăng Phật Tích sơn)

(Thông trúc bốn bề, hình tháp trên mặt đất ngả đi
Lâu đài một cõi, bóng in ngược dưới đáy nước).

Nhiều hình ảnh trong thơ ông rất sinh động:

Sơn như khuynh thạch tương điền hải
Triều dục truy nhân cấp thượng sa
(Lý Hòa hải ngạn)

(Núi như nghiêng đá cùng nhau lấp biển
Sóng triều muốn đuổi theo người chạy gấp trên bãi cát).

Hạc nhân tùng ngôn lại có những câu thơ rất hàm súc:

Lục ỷ hữu nha, huyền tự thán,
Trung thư vô thiệt quản năng ngôn.
(Thứ vận phục đồng niên Nguyễn Á Ưng…)

(Vải the lụa biếc vẫn phải nhờ đến người rao hàng, riêng dây đàn thì tự than được,
Cuốn sách không có lưỡi, mà đó là nơi chiếc bút lông có khả năng tâm sự).

Có những câu thơ mới đọc lên nghe lạnh vắng, nhưng ngẫm cho cùng, đó là nỗi niềm trăn trở vì nhân thế, là một nét chân dung của tác giả:

Vạn lý cô vân tùy độc điểu,
Bách niên hoàng quyển thoại thanh đăng.
(Thư quán mạn đê)

(Vạn dặm một cánh chim bay hoài trong đám mây lẻ,
Trăm năm quyển sách vàng trò chuyện với ngọn đèn xanh).

Chữ nghĩa, ý tứ trong thơ Hoàng Văn Hòe, phải đâu ta dễ thấu suốt, bởi thơ ông hướng tới:

Nhất chi bút hội thiên sơn ý,
Bán cú thi hàm vạn cổ tình.

(Đạo trung thứ Phan Đồng Giang)
(Một nhành bút hội được ý nghĩa núi non,
Nửa câu thơ chứa đựng cả tình muôn thuở).

Sau hai năm nghiên cứu, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú giải, Nhóm biên dịch chúng tôi mới tự chọn lựa được 83 bài, chúng tôi nghĩ đây là phần cơ bản của Hạc Nhân tùng ngôn. Qua đây phần nào đã thấy rõ Hạc Nhân tùng ngôn quả xứng đáng với lời ca ngợi của nhiều học giả.

Về thơ chữ Hán, ở thời Nguyễn sau Cao Bá Quát có Tùng Thiện vương Miên Thẩm (1819-1870) và Tuy Lý vương Miên Trinh (1820-1897) là hai trong số bốn danh gia kiệt xuất của đất nước thời ấy, được vua Tự Đức ban tặng Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường (Thơ được như Tùng, Tuy nhạt cả thơ Thịnh Đường).

Hoàng Văn Hòe sống trong thời kỳ này, phải chăng Hạc Nhân tùng ngôn chưa được vua biết đến ? Mà có biết, thì sự đánh giá của vua dễ sao đạt được sự khách quan với một tác giả xuất thân từ bình dân mà bản lĩnh, phóng túng. Thơ trong Hạc Nhân tùng ngôn vượt xa loại thơ ca cung đình xướng họa, niêm luật chu chỉnh nhưng mô phỏng. Hạc Nhân tùng ngôn đã làm chói sáng cuộc đời Hoàng Văn Hòe và ngược lại chính cuộc đời ông đã thắp đuốc cho thơ ông mãi tỏa sáng…

CHÚ THÍCH:

(1) Các bản dịch trong bài rút từ cuốn Thơ chữ Hán - Hoàng Văn Hòe ... của nhóm biên dịch: Duy Phi, Lê Xuân Hãng và Tống Đức Nhuận.

(2) Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng: Các triều đại Việt Nam, Nxb. Thanh Niên. 1995, tr.106.

(3) Theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (1858 -1930) . Nxb. Văn hóa, 1963: Hoàng Văn Hòe bị chết trong cuộc phản công giặc ở Huế tháng 5 năm Ất Dậu (1885).

http://hannom.org.vn/web/tchn/data/0401.htm

Post by: Vu Nguyen HNUE
15-10-2020