Nghiên cứu khoa học

CÓ HAY KHÔNG YẾU TỐ NỮ TRONG BÀI TỪ ĐIỆU NGUYỄN LANG QUY CỦA KHUÔNG VIỆT ĐẠI SƯ?


09-10-2020

Trong văn học trung đại Việt Nam, sáng tác từ không nhiều, cũng không có những thành tựu thật đột xuất. Do đó, gần đây, tuy hướng nghiên cứu theo thể loại được chú ý hơn trước, song ít có tác giả dành tâm huyết cho việc nghiên cứu thể loại từ. Tuy nhiên, đối với bài từ điệu Nguyễn lang quy của Khuông Việt đại sư (933-1011) thì vấn đề có khác. Bằng chứng là đã có hàng chục bài nghiên cứu chuyên biệt về tác phẩm này được công bố trong các sách và tạp chí chuyên ngành(1). Sở dĩ có hiện tượng ấy, hẳn là do tác phẩm có “vị trí có một không hai trong lịch sử ngoại giao và văn học dân tộc” (Lê Mạnh Thát)(2). Trọng điểm thu hút sự chú ý của các tác giả khi nghiên cứu tác phẩm này là lập trường tư tưởng của tác giả, ý nghĩa ngoại giao, đặc biệt là vấn đề văn bản học của tác phẩm. Vấn đề yếu tố nữ, hoặc giả là giọng nữ trong bài từ này chưa từng được đặt ra.

Khuông Việt đại sư tên thật là Ngô Chân Lưu, người hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa). Lúc nhỏ ông học nho, sau ra thành Đại La theo học đạo Phật với thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc. Đến năm 40 tuổi nổi tiếng tinh thông thiền học, được Đinh Tiên Hoàng hết sức hâm mộ, phong làm Tăng thống. Sang thời Tiền Lê, ông càng được trọng đãi, trực tiếp tham gia các công việc trọng đại của triều đình. Năm 987, Khuông Việt đại sư viết bài từ điệu Nguyễn lang quy để đưa tiễn sứ giả nhà Tống là Lí Giác về nước. Toàn văn bài từ(3) sau khi đã ngắt câu, phân phiến như sau:

 

祥光風好錦帆張,

遙望神仙復帝鄉.

萬重山水涉滄浪,

九天歸路長.

 

情慘切,

對離觴,

攀戀使星郎.

願將深意為邊疆,

分明奏我皇.

 

Phiên âm:

Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,

Dao vọng thần tiên phục đế hương.

Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lương (lang),

Cửu thiên quy lộ trường.

 

Tình thảm thiết,

Đối li thương,

Phan luyến sứ tinh lang.

Nguyện tương thâm ý vị biên cương,

Phân minh tấu ngã hoàng.

 

Dịch nghĩa:

Ánh sáng tốt lành, gió mát, giương cánh buồm gấm,

Xa ngóng thần tiên trở về quê hương của hoàng đế.

Muôn trùng non nước vượt làn sóng xanh,

Đường về xa xôi qua chín tầng trời.

 

Tình thảm thiết,

Đối diện với chén rượu chia tay,

Quyến luyến vin xe sứ [níu lại].

Xin hãy đem ý sâu xa vì biên cương,

Tâu cho vua ta biết rõ.

 

Ta đều biết, Phật giáo chủ trương tiết dục, diệt dục, coi “sắc” là cái cần kiêng kị (giới sắc). Khuông Việt đại sư là một nhà sư nổi tiếng đức cao vọng trọng, hiển nhiên ông càng nghiêm cẩn trì giới. Như vậy, theo lẽ thường, trong tác phẩm của ông không thể có yếu tố nữ được.

Hơn nữa, xét hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, Khuông Việt đại sư sáng tác bài từ này trong tiệc tiễn sứ do triều đình tổ chức với tư cách là đại diện của vương triều Đại Việt để tiễn đại diện của nhà Tống nên càng không thể có yếu tố nữ trong đó.

Nhưng vấn đề phức tạp nảy sinh ở chính chỗ cơ hồ như bất khả ấy. Ta hãy thử mường tượng về một vị Khuông Việt đại sư đức cao vọng trọng (đầu không tóc, hoặc giả có đội mũ thầy tu, mặc áo cà sa, tay cầm tích trượng), là đại diện của một vương triều, khi tiễn biệt sứ nước ngoài về nước lại nói kiểu: Ngài vâng lệnh sang nước tôi, nay ngài về, tôi rất thảm thiết (chúng tôi nhấn mạnh) khi phải chia tay (Tình thảm thiết / Đối li thương -Tình thảm thiết / Đối diện với chén rượu chia tay), tôi muốn vin xe của ngài lại (Phan luyến sứ tinh lang - Quyến luyến vin xe sứ), v.v… Lời lẽ ấy liệu có phù hợp với ngôn từ ngoại giao của một vị đại sư khả kính? Tình cảm sướt mướt thái quá ấy liệu có phù hợp với một nhà tu hành đắc đạo vốn quen với sắc sắc không không chăng?

Điều này đã gợi băn khoăn cho không ít nhà nghiên cứu Phạm Thị Tú trong bài viết Về bài từ đầu tiên và tác giả của nó: sư Khuông Việt(4) trong khi khẳng định những đóng góp Ngô Chân Lưu với tư cách nhà ngoại giao, đồng thời cũng tỏ ý băn khoăn vì tình cảm trong bài từ có phần nhún nhường thái quá. Còn Hoàng Văn Lâu nhận định rằng ngôn ngữ trong bài từ là thứ ngôn ngữ đã được “nâng bậc”(5). Vấn đề đặt ra là tại sao lại có hiện tượng như trên?

Muốn giải thích được các hiện tượng nêu trên cần chú ý đến đặc trưng thể loại. Ta biết rằng tác phẩm Khuông Việt đại sư sáng tác thuộc thể từ, vốn là thể loại có nguồn gốc từ Trung Quốc. Ta thường quen đọc các tác phẩm thơ hơn là đọc từ. Trong khi đó, thơ và từ có nhiều khác biệt, được các nhà từ luận thời quân chủ khái quát thanh các mệnh đề như: “thi cương - từ nhu” (thơ cương - từ nhu), “thi trang - từ mị” (thơ trang trọng - từ ủy mị), “thi nhã - từ tục” (thơ trạng trọng - từ dung tục)... Nói một cách hình ảnh: “Thể từ như cô gái đẹp, còn thơ thì như một tráng sĩ” (Điền Đồng Chi: Tây phố từ thuyết). Như vậy, muốn tìm hiểu tác phẩm của Khuông Việt, trước hết cần tìm hiểu đặc trưng thể loại của nó.

Từ, là cách gọi tắt của “Khúc tử từ” với nghĩa là lời của khúc nhạc, để ca hát. Việc tác từ chí ít từ thời Tống trở về trước tuân theo nguyên tắc “tiên nhạc hậu từ” (Nhạc trước lời sau), “ỷ thanh điền từ” (dựa vào thanh – âm nhạc - để điền lời), việc làm từ vì thế thực chất là viết lời để điền vào các bản nhạc (Yến nhạc) có trước. Vì thế sáng tác từ còn gọi là “điền từ” (điền lời). Từ bị chế định, tòng thuộc vào âm nhạc, đó chính là lí do Trương Viêm cho “Từ lấy hợp nhạc làm đầu” (Từ nguyên). Với tư cách là lời của bản nhạc, lời phải phù hợp với khúc nhạc mà nó được điền vào, đồng thời phải đáp ứng được tính “khả ca” (có thể hát được), nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí “trước chén dưới trăng” (tôn tiền nguyệt hạ). Chính vì vậy Khuông Việt sáng tác bài từ Nguyễn lang quy cũng nhân khi “đối diện với chén rượu chia tay” (đối li thương).

Từ cũng như các thể loại văn học khác, không phải là nhất thành bất biến, mà là trong mỗi giai đoạn phát triển lại có đặc điểm riêng. Muốn hiểu về bài từ của Khuông Việt đại sư, cần xác định vị trí của nó trong từ sử, phải đặt tác phẩm cần khảo sát trong sự vận động, phát triển của thể loại.

Ta đều biết, từ xuất hiện khá sớm song đến cuối thời Đường mới bắt đầu phát triển mạnh, qua giai đoạn Hoa gian, Nam Đường, sang thời Tống dần phát triển lên đỉnh cao, đạt mức là “văn học tương ứng với thời đại của nó mà các đời sau chẳng thể nào theo kịp” (Vương Quốc Duy). Tuy nhiên, cách nói: Hán phú, Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc, Minh – Thanh tiểu thuyết cùng thực tế phát triển của thể loại từ thời Tống khiến không ít nhà nghiên cứu ở Việt Nam nhầm tưởng rằng bài từ của Khuông Việt đại sư sáng tác dưới sự ảnh hưởng của Tống từ. Kì thực, “Nửa thế kỷ thuộc những năm đầu khi nhà Tống mới lập quốc, thể loại từ không hề hưng thịnh cùng sự hưng thịnh của triều đại mới được kiến lập, về cơ bản vẫn nằm trong trạng thái đình trệ. Vương Chước thời Nam Tống từng không nguôi cảm khái rằng: ‘Buổi đầu bình định thiên hạ, pháp độ lễ nhạc đều dần dần toàn thịnh, nhưng nhạc chương (chỉ thể từ) của sĩ đại phu lại suy vi hơn cả thời trước’ (Bích kê mạn chí - Quyển II). Trong bốn năm chục năm trời, tác giả từ không quá chục người, tác phẩm từ chỉ còn 33 bài”(6). Trong số 33 bài này không có bài nào viết theo điệu Nguyễn lang quy, và nhìn chung các tác phẩm không có gì đặc sắc nếu không nói là bước lùi thậm lớn nếu so sánh với thành tựu mà Hoa gian phái và phái từ Nam Đường đã đạt được. Sang thời Tống, phải đợi đến các sáng tác của Yến Thù (991-1055, vẫn chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của từ phong Ngũ đại) thể loại từ thời Tống mới khởi sắc. Chính vì thế, Phùng Hú (1843-1927) trong sách Cảo Am luận coi Yến Thù là “Bắc Tống ỷ thanh gia sơ tổ” (Thủy tổ của các nhà điền từ thời Bắc Tống)(7). Và điều khá thú vị là khi Khuông Việt đại sư viết bài Nguyễn lang quy của mình vị thủy tổ của các nhà điền từ thời Bắc Tống còn chưa ra đời. Lần về thời điểm xuất hiện của điệu Nguyễn lang quy, tư liệu hiện còn ghi nhận điệu từ này chỉ xuất hiện với các sáng tác của Phùng Diên Tị - đại thần triều Nam Đường (2 bài), và sáng tác của Nam Đường hậu chủ Lý Dực (có sách phiên là Lí Dục, 1 bài). Xem thế đủ biết, nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ của Khuông Việt đại sư không phải là Tống từ mà là thể từ thời Ngũ đại, gần gũi nhất là phong khí sáng tác từ của triều Nam Đường.

Vậy thể loại từ giai đoạn Ngũ đại có đặc điểm ra sao?

Thể loại từ xét trong khoảng cuối thời Đường đến hết thời Ngũ đại được sáng tác trong môi trường âm nhạc và nữ sắc. Thời Ngũ đại là giai đoạn xã hội Trung Quốc có nhiều động loạn. Trong giai đoạn này, riêng có Hậu Thục và Nam Đường là hai tiểu quốc được hưởng cuộc sống khá thanh bình. Quân thần các nước này sống sa hoa hưởng lạc, triều đình Hậu Thục và Nam Đường trở thành hai trung tâm phát triển của thể loại từ thời Ngũ đại. Tại triều đình Nam Đường, nổi tiếng nhất về từ chính là hai vị vua Lí Cảnh, Lí Dực và nguyên lão đại thần Phùng Diên Tị. Do bị ảnh hưởng từ phong của thời Ngũ đại nên việc Khuông Việt đại sư sáng tác từ trong buổi tiễn sứ do triều đình tổ chức cũng là việc hết sức bình thường.

Có thể mường tượng phần nào về đặc điểm của thể loại từ giai đoạn Ngũ đại thông qua cương lĩnh sáng tác của phái Hoa gian được Âu Dương Quýnh nêu ra trong bài tựa Hoa gian tập (viết theo lời đề nghị của người biên soạn, tức Triệu Sùng Tộ). Theo Âu Dương Quýnh, các từ gia phái Hoa gian (cũng như các từ gia thời Ngũ đại nói chung) trên cơ sở kế thừa thành tựa của các từ gia thời Đường, tiếp tục truy cầu sự gọt giữa về ngôn từ, nói một cách hình tượng là: “Chuốt ngọc chạm châu, phỏng hóa công mà vượt khéo; trồng hoa tỉa lá, phỏng xuân sắc mà tranh tươi”. Theo ông, ngôn ngữ của tác phẩm từ phải phù hợp, hài hòa với tiếng nhạc lời ca, “tiếng tiếng hợp với giọng loan”, “chữ chữ hài hòa luật phượng”. Cái gọi là “giọng loan” chính là giọng nữ, vì từ được sáng tác cho ca nữ hát. Chính vì từ dùng để hát trên nền nhạc nên theo Âu Dương Quýnh, cái đẹp của từ là cái đẹp trong sự thống nhất của ba yếu tố: thanh - sắc - lời. Từ, tức phần lời hát, đó là để “phụ giúp cho nét đẹp yêu kiều” của ca nhân, và vì thế “không lời nào không trong trẻo tuyệt diệu”. Khảo sát Hoa gian tập, quá nửa các bài được viết với ngôn ngữ diễm lệ, thủ pháp trữ tình uyển chuyển hàm súc, lời đẹp mà tình nồng, mang xu hướng duy tình và duy mĩ(8), “năm trăm bài trong Hoa gian tập đều là lấy cái diễm ngữ để tả cái diễm tình”(9). Phái từ Nam Đường cũng không vượt ra khỏi truyền thống này(10).

 Khuông Việt đại sư khi tiếp thu thể loại từ và vận dụng nó trong sáng tác điều ấy có nghĩa là ông đồng thời tiếp thu những đặc trưng thẩm mĩ của thể loại trong phong khí chung của thời đại. Cho nên bài từ của ông, nói cảnh thiên nhiên thì “tường quang, phong hảo” (ánh sáng tốt lành, gió mát), nói thuyền thì dùng hình tượng “cẩm phàm” (buồm gấm), nói người về thì gọi là “thần tiên”, nơi về là “đế hương”, nói đường xa thì “Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang” (muôn trùng non nước vượt làn sóng xanh) hay “cửu thiên quy lộ trường” (đường về xa xôi chín tầng trời)… cái “diễm ngữ” được huy động ở tần suất cao. Lê Quý Đôn trong phần “Lệ ngôn” sách Toàn Việt thi lục hết sức tinh tế khi cho rằng bài từ của Khuông Việt “uyển chuyển hoa mĩ, có thể vốc được” (婉麗可掬 - uyển lệ khả cúc)(11). Cho nên Hoàng Văn Lâu đã đúng khi nói rằng ngôn ngữ trong bài Nguyễn lang quy của Khuông Việt đại sư là thứ ngôn ngữ đã được “nâng bậc”, vì sự chuốt gọt về ngôn từ trong tác phẩm này là nhằm đáp ứng tính chất duy mĩ của thể loại. Tuy nhiên, theo đặc trưng thể loại, cái đẹp về mặt ngôn từ (diễm ngữ) không tách khỏi cái “diễm tình”, lời đẹp cốt để nói tình nồng, yếu tố duy mĩ không tách rời yếu tố duy tình. Do vậy, trong trong tác phẩm, khi nói về tình cảm thì phải là “tình thảm thiết”, là “phan luyến sứ tinh lang”... Điều này là hoàn toàn phù hợp với “bản sắc đương hành” của thể loại từ giai đoạn cuối thời Đường đến đầu thời Bắc Tống.  

Bài từ của Khuông Việt đại sư viết theo từ điệu Nguyễn lang quy. Tên từ điệu này lấy từ tích Lưu Thần và Nguyễn Triệu lạc vào cõi Thiên Thai – cõi tiên, sau vì nhớ quê nên từ biệt ra về. Nguyễn lang quy nghĩa là “Chàng Nguyễn trở về”. Tên từ điệu chính là tên khúc nhạc. Mỗi nhạc khúc tự nó có ý nghĩa riêng. Ý nghĩa của khúc nhạc Nguyễn lang quy thể hiện ở chính tên gọi của nó, diễn đạt tình cảm lưu luyến lúc tiễn đưa. Do vậy, nội dung phần lời (từ) điền vào bản nhạc ấy phải phù hợp với nội dung bản nhạc. Điều này đòi hỏi từ nhân nhất thiết phải am hiểu về âm nhạc. Và khi đó, tên điệu (chính là tên nhạc khúc) đồng thời là tên của bài từ (từ đề). Bài Nguyễn lang quy của Khuông Việt đại sư viết về cảnh chia li nên tình cảm trong bài từ rất buồn bã, quyến luyến. Như là một sự mặc định, thơ ca cổ kim khi viết về đề tài chia li thường nhuốm buồn, sự lựa chọn về đề tài ít nhiều đã quy định nội dung tác phẩm và tâm trạng nhân vật trữ tình.

Nếu xét các tác phẩm từ giai đoạn Hoa gian và Nam Đường sẽ nhận thấy có rất nhiều bài viết về đề tài li biệt, song thông thường đó là các cuộc chia li mang màu sắc ái tình. Hoa gian phái có tới 4/5 nói chuyện nam nữ, “nếu không phải niềm vui hội hợp thì cũng là nỗi sầu chia phôi”(12). Nhưng niềm vui hội hợp thì ít mà nỗi sầu chia phôi thường nhiều, bởi vậy giọng buồn thương ai oán bàng bạc trong các tác phẩm từ giai đoạn này. Sáng tác từ thời Nam Đường hiện còn 217 bài, chiếu theo thất tình (bảy trạng thái tình cảm: hỉ - vui sướng, nộ - tức giận, ai - đau buồn, cụ - sợ hãi, ái - yêu thương, ố - căm ghét, dục - ham muốn), thì các bài mang tâm trạng đau buồn chiếm 204 bài (khoảng 90%), các bài mang tâm trạng vui sướng chiếm 13 bài (khoảng 10%)(13). Có thể thấy cảm hứng buồn là cảm hứng chủ đạo trong các sáng từ thời Ngũ đại, nó trở thành một trong những đặc trưng thẩm mĩ của thể loại, quen gọi là “dĩ bi vi mĩ” (lấy buồn là đẹp) và “dĩ tình động nhân”(dùng tình để làm rung động lòng người)(14)Cái “bi” là yếu tố phổ dụng trong các sáng tác từ giai đoạn Ngũ đại, và sáng tác từ của Khuông Việt đại sư cũng không nằm ngoài phạm vi đó.

Nhưng tại sao đương thời trong quan hệ ngoại giao với nhà Tống, triều Tiền Lê đang phải “dùng thuật”, phải “giữ kẽ”(15), Khuông Việt là đại diện cho triều đình Đại Việt, hơn nữa lại là một vị đại sư đức cao vọng trọng mà trong khi đưa tiễn một cách “ngoại giao”, “xã giao” với Lí Giác mà phải “thảm thiết”, rồi còn muốn “vin xe sứ” ở lại? Về điểm này, ta chú ý đến đặc điểm sáng tác có tính chất đặc thù của thể loại từ. Ở khoảng thời Tống trở về trước, làm từ là điền lời vào bản nhạc có sẵn để hát. Từ là sản phẩm “ứng ca nhi tác” (để hát mà viết), để diễn xướng, không phải để đọc. Từ được sáng tác cho ca kĩ hát, ca kĩ vừa là người thể hiện, vừa là người truyền bá, về cơ bản môi trường sáng tác của từ là môi trường âm nhạc, thiên về yếu tố nữ tính hóa, vì thế từ rất bạo dạn trong ngôn tình. Theo đó, hiệu quả thẩm mĩ của một bài từ gồm ba yếu tố căn bản: thanh, sắc, và lời. Thanh tức âm nhạc, nền nhạc của bài từ, do nhạc công diễn tấu; sắc, nữ sắc, chỉ ca nữ, là người thể hiện ca từ; lời, tức khúc tử từ, ca từ (cái ngày ta gọi là từ chính là phần lời này).

Sự diễn xướng từ được tiến hành trong môi trường âm nhạc, có thể được thực hiện ngay trong cuộc rượu - trước chén (tôn tiền, hoặc giả là những không gian thơ mộng và tình tứ kiểu: dưới trăng - nguyệt hạ, trong hoa -hoa gian), thông thường có rượu trợ hứng. Người thưởng thức căn bản là nam nhân: tay cầm chén, tai nghe tiếng nhạc, giọng ca, mắt nhìn nữ sắc, đồng thời thưởng thức cái hay cái đẹp của ca từ. Chỉ trong quy trình này, giá trị nghệ thuật của tác phẩm từ mới được biểu hiện một cách toàn vẹn nhất.

Từ nhân - chủ thể sáng tác - sau khi hoàn tác phẩm của mình, thực chất mới chỉ hoàn thành một công đoạn sáng tác, tiếp tục sau đó, cần phải thông qua ca nữ hát lên, hòa cùng tiếng nhạc, thông qua lời ca tiếng nhạc truyền tới người nghe. Đến bước này, tác phẩm từ mới thực sự hoàn tất. Nói cách khác, một bài từ trong giai đoạn chưa thoát li khỏi âm nhạc, việc tác từ vẫn là “ỷ thanh điền từ”, “ứng ca nhi tác”, để đến với người tiếp nhận cần thông qua khâu trung chuyển, đó là ca nữ.

Con đường đi từ tác giả từ - từ nhân - đến người tiếp nhận như sau:

TÁC GIẢ TỪ - TỪ NHÂN  CA NỮ  NGƯỜI TIẾP NHẬN

Như vậy, ca nữ là khâu trung gian giữa tác giả và người tiếp nhận. Trong trường hợp sáng tác, ứng tác tại chỗ (như trường hợp sáng tác của Khuông Việt địa sư), thì tác giả đồng thời là khán, thính giả - người tiếp nhận. Tác phẩm khi đến ca nữ thể hiện, đối với tác giả đã có khoảng cách nhất định. Ca nữ đã mang dáng vẻ của chủ thể sáng tạo thứ hai, cơ hồ khi hát tác phẩm từ, ca nữ như đang thể hiện tác phẩm, biểu đạt tình cảm của chính mình. Các từ nhân khi sáng tác rất lưu ý đến yếu tố này, từ nhân có thể nhập thân vào đời sống, tâm trạng ca kĩ, thay ca kĩ viết lên nỗi niềm của họ; trong trường hợp sáng tác từ là tâm tư, tình cảm của từ nhân, họ sẽ thông qua ca nữ để biểu hiện, sẽ “nhờ” ca kĩ sẽ “nói thay” cho mình. Chính vì vậy, có những tác phẩm từ tác giả của nó là nam nhân nhưng trong tác phẩm, đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất lại là “thiếp”. Do ca kĩ “nói thay” cho từ nhân, nên tác phẩm có thể có hiện tượng chuyển giọng, có xu hướng nữ tính hóa. Đặc điểm này được nhà từ luận Điền Đồng Chi gọi là “Nam tử Hán nhi tác khuê âm” (Nam tử Hán mà thốt ra lời của người phòng khuê. Điền Đồng Chi: Tây Phố từ thuyết). Từ sự lựa chọn đề tài, những đặc điểm về phương thức tạo tác tác phẩm, môi trường diễn xướng, và vai trò của ca nữ trong việc diễn xướng tác phẩm từ, dễ nhận thấy những câu sướt mướt kiểu “Tình thảm thiết”, “Quyến luyến vin xe sứ” trong bài Nguyễn lang quy của Khuông Việt đại sư chính là biểu hiện của sự chuyển giọng từ nam sang nữ, là ca từ dành cho ca nữ thể hiện, là “giọng loan” như cách nói của Âu Dương Quýnh, cái đẹp của ca từ là để “phụ giúp cho nét đẹp yêu kiều” của ca nữ, tuy kết bài có lồng ghép thêm lời nhắn gửi về sự vụ quốc gia (Xin đem ý sâu xa vì biên cương phương Nam / Tâu cho vua ta biết rõ), song không phải là những lời lẽ ngoại giao do Khuông Việt đại sư phát ngôn một cách hoàn toàn trực tiếp với Lý Giác. Đặt bài từ của Khuông Việt trong trào lưu chung của thể loại từ từ cuối thời Đường đến đầu thời Bắc Tống và nhìn nhận một cách căn bản những đặc trưng thể loại của nó, hẳn ta sẽ không còn băn khoăn rằng tình cảm trong bài từ có phần nhún nhường thái quá, không tương xứng với tinh thần dân tộc như có nhà nghiên cứu đã từng đặt ra.

V.C. 04.04.09

-------------------------------------

(1). Chẳng hạn các bài của Phạm Thị Tú: Về bài Từ đầu tiên và tác giả của nó: Khuông ViệtTạp chí Văn học, số 6 - 1974; Nguyễn Tài Cẩn: Vấn đề lập trường đối với nhà Tống trong bài Vương lang quy của Ngô Chân LưuTạp chí Văn học, số 2 - 1981; Hoàng Văn Lâu: Bài Từ ở thế kỉ X (trong sách Một số vấn đề văn bản Hán nôm học, Nxb. KHXH, H. 1983, tr. 191 - 212); Nguyễn Đăng Na: Về bài “Vương lang quy từ” - Khảo sát và giải mã văn bảnTạp chí Văn học, số 1 - 1995; Nguyễn Đình Phức: Về bài từ Ngọc lang quy của sư Khuông ViệtTạp chí Hán Nôm, số 5 - 2005; Alaxandre Lê: Bài từ Ngọc lang quy và vấn đề văn bản họcThời Đại, số 6, 2002, v.v…

(2). Lê Mạnh Thát: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập II - Từ Lý Nam Đế (544) đến Lý Thái Tông (1054), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr.452.

(3). Theo văn bản của Đại Việt sử kí toàn thư.

(4). Phạm Thị Tú: Về bài từ đầu tiên và tác giả của nó: sư Khuông Việt, Tạp chí Văn học, số 6/1974.

(5). Hoàng Văn Lâu: Về bài từ ở thế kỉ X (in trong sách Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm, Nxb. Khoa học xã hội, 1983).

(6). Viên Hành Bái (chủ biên): Trung Quốc văn học sử, Quyển III. Cao đẳng giáo dục xuất bản xã, 2001, tr. 33

(7). Dẫn theo Trung Quốc văn học sử, Quyển III, Sđd, tr. 35.

(8). Dư Truyền Bằng: Đường Tống từ lưu phái nghiên cứu. Vũ Hán đại học xuất bản xã, 2004, tr. 29.

(9). Dư Truyền Bằng, Sđd, tr.31.

(10). Duy có trường hợp Nam Đường hậu chủ Lý Dực, ban đầu sáng tác theo phong cách chung của thời Ngũ đại, chẳng hạn nó về li sầu thì ví như tơ giăng, “chặt không đứt, gỡ vẫn rối” (Tiễn bất đoạn / Lý hoàn loạn - Điệu Ô dạ đề). Từ năm Thiên Bảo thứ 7 (974), quân Tống hạ Kim Lăng, diệt Nam Đường, Lý Dực bị bắt cầm tù ở Biện Lăng. Trong thời gian bị cầm tù, ông đem sự ưu tư về thân phận, nỗi sầu quốc phá gia vong phổ vào từ, mở rộng phạm vi đề tài của thể loại, tuy được nhà từ luận Vương Quốc Duy cho là: “Thể loại từ đến Lý Hậu chủ tầm nhìn mới rộng, cảm khái mới sâu, mới biến từ của nhạc công thành từ của sĩ đại phu” (Nhân gian từ thoại), song thực chất đây không phải xu hướng chính trong từ phong thời Ngũ đại.

(11). Lê Quý Đôn: Toàn Việt thi lục - “Lệ ngôn” (kí hiệu A.1262, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

(12). Dư Truyền Bằng, Sđd, tr. 29.

(13). Dư Truyền Bằng, Sđd, tr. 42.  

(14). Dương Hải Minh trong sách Đường - Tống từ mĩ học (Giang Tô Giáo dục xuất bản xã, 1998) đã chỉ ra các đặc trưng mĩ học của thể loại từ giai đoạn này như: “dĩ phú vi mĩ”, “dĩ diễm vi mĩ”, “dĩ nhu vi mĩ”, “dĩ bi vi mĩ”, “dĩ tình động nhân”...

(15). Nhà Tiền Lê từng sai sư Đỗ Pháp Thuận giả làm Giang lệnh để đón sứ nhà Tống, rồi cùng sứ Tống ngâm vịnh thơ ca. Lí Giác từng “chế” hai câu đầu bài thơ vinh ngỗng của Lạc Tân Vương (Nga, nga, nga / Khúc hạng hướng thiên ca / Bạch mao phù lục thủy / Hồng chưởng bát thanh ba: Ngỗng, ngỗng, ngỗng / Ngẩng cổ hướng lên trời ca hát / Lông trắng nổi bồng bềnh trên nước biếc / Chèo hồng rẽ sóng xanh) thành:

Nga nga lưỡng nga nga,

Ngưỡng diện hướng thiên nha.

(Ngỗng ngỗng, ngỗng một đôi;

Ngửa cổ nhìn chân trời).

Đỗ Pháp Thuận thấy vậy liền ngâm:

Bạch mao phô lục thủy,

Hồng trạo bãi thanh ba.

(Lông trắng trên nước biếc,

Chèo hồng, sóng xanh bơi)

Giác thấy vậy rất lấy làm lạ!

    Xem: Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử kí toàn thư (bản dịch), tập I, Nxb. Khoa học xã hội, H. 1993 tr. 224.

 

(Source: Khoa Ngữ văn )

Tin khác:
  

NGƯỜI PHỤ NỮ NGHE TIẾNG NÓI CỦA CHÍNH MÌNH TRONG KỊCH CỦA SAMUEL BECKETT (27/04)

  

VỀ MỘT DIỄN NGÔN TÍNH DỤC TRONG VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT VIỆT NAM (từ đầu thế kỷ XX đến 1945) (13/04)

  

Nhận diện “thân thể sáng tác” trong văn học đương đại Trung Quốc (13/04)

  

NGƯỜI PHỤ NỮ VÀ XÃ HỘI MẪU QUYỀN TRONG SỬ THI TÂY NGUYÊN (TRƯỜNG HỢP OTNDRONG CỦA NGƯỜI MƠ NÔNG) (13/04)

 

     
   

  Hội thảo Giới In Ấn  
 

CÓ HAY KHÔNG YẾU TỐ NỮ TRONG BÀI TỪ ĐIỆU NGUYỄN LANG QUY CỦA KHUÔNG VIỆT ĐẠI SƯ?

Phạm Văn Ánh*

 

Trong văn học trung đại Việt Nam, sáng tác từ không nhiều, cũng không có những thành tựu thật đột xuất. Do đó, gần đây, tuy hướng nghiên cứu theo thể loại được chú ý hơn trước, song ít có tác giả dành tâm huyết cho việc nghiên cứu thể loại từ. Tuy nhiên, đối với bài từ điệu Nguyễn lang quy của Khuông Việt đại sư (933-1011) thì vấn đề có khác. Bằng chứng là đã có hàng chục bài nghiên cứu chuyên biệt về tác phẩm này được công bố trong các sách và tạp chí chuyên ngành(1). Sở dĩ có hiện tượng ấy, hẳn là do tác phẩm có “vị trí có một không hai trong lịch sử ngoại giao và văn học dân tộc” (Lê Mạnh Thát)(2). Trọng điểm thu hút sự chú ý của các tác giả khi nghiên cứu tác phẩm này là lập trường tư tưởng của tác giả, ý nghĩa ngoại giao, đặc biệt là vấn đề văn bản học của tác phẩm. Vấn đề yếu tố nữ, hoặc giả là giọng nữ trong bài từ này chưa từng được đặt ra.

Khuông Việt đại sư tên thật là Ngô Chân Lưu, người hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa). Lúc nhỏ ông học nho, sau ra thành Đại La theo học đạo Phật với thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc. Đến năm 40 tuổi nổi tiếng tinh thông thiền học, được Đinh Tiên Hoàng hết sức hâm mộ, phong làm Tăng thống. Sang thời Tiền Lê, ông càng được trọng đãi, trực tiếp tham gia các công việc trọng đại của triều đình. Năm 987, Khuông Việt đại sư viết bài từ điệu Nguyễn lang quy để đưa tiễn sứ giả nhà Tống là Lí Giác về nước. Toàn văn bài từ(3) sau khi đã ngắt câu, phân phiến như sau:

 

祥光風好錦帆張,

遙望神仙復帝鄉.

萬重山水涉滄浪,

九天歸路長.

 

情慘切,

對離觴,

攀戀使星郎.

願將深意為邊疆,

分明奏我皇.

 

Phiên âm:

Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,

Dao vọng thần tiên phục đế hương.

Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lương (lang),

Cửu thiên quy lộ trường.

 

Tình thảm thiết,

Đối li thương,

Phan luyến sứ tinh lang.

Nguyện tương thâm ý vị biên cương,

Phân minh tấu ngã hoàng.

 

Dịch nghĩa:

Ánh sáng tốt lành, gió mát, giương cánh buồm gấm,

Xa ngóng thần tiên trở về quê hương của hoàng đế.

Muôn trùng non nước vượt làn sóng xanh,

Đường về xa xôi qua chín tầng trời.

 

Tình thảm thiết,

Đối diện với chén rượu chia tay,

Quyến luyến vin xe sứ [níu lại].

Xin hãy đem ý sâu xa vì biên cương,

Tâu cho vua ta biết rõ.

 

Ta đều biết, Phật giáo chủ trương tiết dục, diệt dục, coi “sắc” là cái cần kiêng kị (giới sắc). Khuông Việt đại sư là một nhà sư nổi tiếng đức cao vọng trọng, hiển nhiên ông càng nghiêm cẩn trì giới. Như vậy, theo lẽ thường, trong tác phẩm của ông không thể có yếu tố nữ được.

Hơn nữa, xét hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, Khuông Việt đại sư sáng tác bài từ này trong tiệc tiễn sứ do triều đình tổ chức với tư cách là đại diện của vương triều Đại Việt để tiễn đại diện của nhà Tống nên càng không thể có yếu tố nữ trong đó.

Nhưng vấn đề phức tạp nảy sinh ở chính chỗ cơ hồ như bất khả ấy. Ta hãy thử mường tượng về một vị Khuông Việt đại sư đức cao vọng trọng (đầu không tóc, hoặc giả có đội mũ thầy tu, mặc áo cà sa, tay cầm tích trượng), là đại diện của một vương triều, khi tiễn biệt sứ nước ngoài về nước lại nói kiểu: Ngài vâng lệnh sang nước tôi, nay ngài về, tôi rất thảm thiết (chúng tôi nhấn mạnh) khi phải chia tay (Tình thảm thiết / Đối li thương -Tình thảm thiết / Đối diện với chén rượu chia tay), tôi muốn vin xe của ngài lại (Phan luyến sứ tinh lang - Quyến luyến vin xe sứ), v.v… Lời lẽ ấy liệu có phù hợp với ngôn từ ngoại giao của một vị đại sư khả kính? Tình cảm sướt mướt thái quá ấy liệu có phù hợp với một nhà tu hành đắc đạo vốn quen với sắc sắc không không chăng?

Điều này đã gợi băn khoăn cho không ít nhà nghiên cứu Phạm Thị Tú trong bài viết Về bài từ đầu tiên và tác giả của nó: sư Khuông Việt(4) trong khi khẳng định những đóng góp Ngô Chân Lưu với tư cách nhà ngoại giao, đồng thời cũng tỏ ý băn khoăn vì tình cảm trong bài từ có phần nhún nhường thái quá. Còn Hoàng Văn Lâu nhận định rằng ngôn ngữ trong bài từ là thứ ngôn ngữ đã được “nâng bậc”(5). Vấn đề đặt ra là tại sao lại có hiện tượng như trên?

Muốn giải thích được các hiện tượng nêu trên cần chú ý đến đặc trưng thể loại. Ta biết rằng tác phẩm Khuông Việt đại sư sáng tác thuộc thể từ, vốn là thể loại có nguồn gốc từ Trung Quốc. Ta thường quen đọc các tác phẩm thơ hơn là đọc từ. Trong khi đó, thơ và từ có nhiều khác biệt, được các nhà từ luận thời quân chủ khái quát thanh các mệnh đề như: “thi cương - từ nhu” (thơ cương - từ nhu), “thi trang - từ mị” (thơ trang trọng - từ ủy mị), “thi nhã - từ tục” (thơ trạng trọng - từ dung tục)... Nói một cách hình ảnh: “Thể từ như cô gái đẹp, còn thơ thì như một tráng sĩ” (Điền Đồng Chi: Tây phố từ thuyết). Như vậy, muốn tìm hiểu tác phẩm của Khuông Việt, trước hết cần tìm hiểu đặc trưng thể loại của nó.

Từ, là cách gọi tắt của “Khúc tử từ” với nghĩa là lời của khúc nhạc, để ca hát. Việc tác từ chí ít từ thời Tống trở về trước tuân theo nguyên tắc “tiên nhạc hậu từ” (Nhạc trước lời sau), “ỷ thanh điền từ” (dựa vào thanh – âm nhạc - để điền lời), việc làm từ vì thế thực chất là viết lời để điền vào các bản nhạc (Yến nhạc) có trước. Vì thế sáng tác từ còn gọi là “điền từ” (điền lời). Từ bị chế định, tòng thuộc vào âm nhạc, đó chính là lí do Trương Viêm cho “Từ lấy hợp nhạc làm đầu” (Từ nguyên). Với tư cách là lời của bản nhạc, lời phải phù hợp với khúc nhạc mà nó được điền vào, đồng thời phải đáp ứng được tính “khả ca” (có thể hát được), nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí “trước chén dưới trăng” (tôn tiền nguyệt hạ). Chính vì vậy Khuông Việt sáng tác bài từ Nguyễn lang quy cũng nhân khi “đối diện với chén rượu chia tay” (đối li thương).

Từ cũng như các thể loại văn học khác, không phải là nhất thành bất biến, mà là trong mỗi giai đoạn phát triển lại có đặc điểm riêng. Muốn hiểu về bài từ của Khuông Việt đại sư, cần xác định vị trí của nó trong từ sử, phải đặt tác phẩm cần khảo sát trong sự vận động, phát triển của thể loại.

Ta đều biết, từ xuất hiện khá sớm song đến cuối thời Đường mới bắt đầu phát triển mạnh, qua giai đoạn Hoa gian, Nam Đường, sang thời Tống dần phát triển lên đỉnh cao, đạt mức là “văn học tương ứng với thời đại của nó mà các đời sau chẳng thể nào theo kịp” (Vương Quốc Duy). Tuy nhiên, cách nói: Hán phú, Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc, Minh – Thanh tiểu thuyết cùng thực tế phát triển của thể loại từ thời Tống khiến không ít nhà nghiên cứu ở Việt Nam nhầm tưởng rằng bài từ của Khuông Việt đại sư sáng tác dưới sự ảnh hưởng của Tống từ. Kì thực, “Nửa thế kỷ thuộc những năm đầu khi nhà Tống mới lập quốc, thể loại từ không hề hưng thịnh cùng sự hưng thịnh của triều đại mới được kiến lập, về cơ bản vẫn nằm trong trạng thái đình trệ. Vương Chước thời Nam Tống từng không nguôi cảm khái rằng: ‘Buổi đầu bình định thiên hạ, pháp độ lễ nhạc đều dần dần toàn thịnh, nhưng nhạc chương (chỉ thể từ) của sĩ đại phu lại suy vi hơn cả thời trước’ (Bích kê mạn chí - Quyển II). Trong bốn năm chục năm trời, tác giả từ không quá chục người, tác phẩm từ chỉ còn 33 bài”(6). Trong số 33 bài này không có bài nào viết theo điệu Nguyễn lang quy, và nhìn chung các tác phẩm không có gì đặc sắc nếu không nói là bước lùi thậm lớn nếu so sánh với thành tựu mà Hoa gian phái và phái từ Nam Đường đã đạt được. Sang thời Tống, phải đợi đến các sáng tác của Yến Thù (991-1055, vẫn chịu ảnh hưởng rất sâu sắc của từ phong Ngũ đại) thể loại từ thời Tống mới khởi sắc. Chính vì thế, Phùng Hú (1843-1927) trong sách Cảo Am luận coi Yến Thù là “Bắc Tống ỷ thanh gia sơ tổ” (Thủy tổ của các nhà điền từ thời Bắc Tống)(7). Và điều khá thú vị là khi Khuông Việt đại sư viết bài Nguyễn lang quy của mình vị thủy tổ của các nhà điền từ thời Bắc Tống còn chưa ra đời. Lần về thời điểm xuất hiện của điệu Nguyễn lang quy, tư liệu hiện còn ghi nhận điệu từ này chỉ xuất hiện với các sáng tác của Phùng Diên Tị - đại thần triều Nam Đường (2 bài), và sáng tác của Nam Đường hậu chủ Lý Dực (có sách phiên là Lí Dục, 1 bài). Xem thế đủ biết, nguồn ảnh hưởng đến việc tác từ của Khuông Việt đại sư không phải là Tống từ mà là thể từ thời Ngũ đại, gần gũi nhất là phong khí sáng tác từ của triều Nam Đường.

Vậy thể loại từ giai đoạn Ngũ đại có đặc điểm ra sao?

Thể loại từ xét trong khoảng cuối thời Đường đến hết thời Ngũ đại được sáng tác trong môi trường âm nhạc và nữ sắc. Thời Ngũ đại là giai đoạn xã hội Trung Quốc có nhiều động loạn. Trong giai đoạn này, riêng có Hậu Thục và Nam Đường là hai tiểu quốc được hưởng cuộc sống khá thanh bình. Quân thần các nước này sống sa hoa hưởng lạc, triều đình Hậu Thục và Nam Đường trở thành hai trung tâm phát triển của thể loại từ thời Ngũ đại. Tại triều đình Nam Đường, nổi tiếng nhất về từ chính là hai vị vua Lí Cảnh, Lí Dực và nguyên lão đại thần Phùng Diên Tị. Do bị ảnh hưởng từ phong của thời Ngũ đại nên việc Khuông Việt đại sư sáng tác từ trong buổi tiễn sứ do triều đình tổ chức cũng là việc hết sức bình thường.

Có thể mường tượng phần nào về đặc điểm của thể loại từ giai đoạn Ngũ đại thông qua cương lĩnh sáng tác của phái Hoa gian được Âu Dương Quýnh nêu ra trong bài tựa Hoa gian tập (viết theo lời đề nghị của người biên soạn, tức Triệu Sùng Tộ). Theo Âu Dương Quýnh, các từ gia phái Hoa gian (cũng như các từ gia thời Ngũ đại nói chung) trên cơ sở kế thừa thành tựa của các từ gia thời Đường, tiếp tục truy cầu sự gọt giữa về ngôn từ, nói một cách hình tượng là: “Chuốt ngọc chạm châu, phỏng hóa công mà vượt khéo; trồng hoa tỉa lá, phỏng xuân sắc mà tranh tươi”. Theo ông, ngôn ngữ của tác phẩm từ phải phù hợp, hài hòa với tiếng nhạc lời ca, “tiếng tiếng hợp với giọng loan”, “chữ chữ hài hòa luật phượng”. Cái gọi là “giọng loan” chính là giọng nữ, vì từ được sáng tác cho ca nữ hát. Chính vì từ dùng để hát trên nền nhạc nên theo Âu Dương Quýnh, cái đẹp của từ là cái đẹp trong sự thống nhất của ba yếu tố: thanh - sắc - lời. Từ, tức phần lời hát, đó là để “phụ giúp cho nét đẹp yêu kiều” của ca nhân, và vì thế “không lời nào không trong trẻo tuyệt diệu”. Khảo sát Hoa gian tập, quá nửa các bài được viết với ngôn ngữ diễm lệ, thủ pháp trữ tình uyển chuyển hàm súc, lời đẹp mà tình nồng, mang xu hướng duy tình và duy mĩ(8), “năm trăm bài trong Hoa gian tập đều là lấy cái diễm ngữ để tả cái diễm tình”(9). Phái từ Nam Đường cũng không vượt ra khỏi truyền thống này(10).

 Khuông Việt đại sư khi tiếp thu thể loại từ và vận dụng nó trong sáng tác điều ấy có nghĩa là ông đồng thời tiếp thu những đặc trưng thẩm mĩ của thể loại trong phong khí chung của thời đại. Cho nên bài từ của ông, nói cảnh thiên nhiên thì “tường quang, phong hảo” (ánh sáng tốt lành, gió mát), nói thuyền thì dùng hình tượng “cẩm phàm” (buồm gấm), nói người về thì gọi là “thần tiên”, nơi về là “đế hương”, nói đường xa thì “Vạn trùng sơn thủy thiệp thương lang” (muôn trùng non nước vượt làn sóng xanh) hay “cửu thiên quy lộ trường” (đường về xa xôi chín tầng trời)… cái “diễm ngữ” được huy động ở tần suất cao. Lê Quý Đôn trong phần “Lệ ngôn” sách Toàn Việt thi lục hết sức tinh tế khi cho rằng bài từ của Khuông Việt “uyển chuyển hoa mĩ, có thể vốc được” (婉麗可掬 - uyển lệ khả cúc)(11). Cho nên Hoàng Văn Lâu đã đúng khi nói rằng ngôn ngữ trong bài Nguyễn lang quy của Khuông Việt đại sư là thứ ngôn ngữ đã được “nâng bậc”, vì sự chuốt gọt về ngôn từ trong tác phẩm này là nhằm đáp ứng tính chất duy mĩ của thể loại. Tuy nhiên, theo đặc trưng thể loại, cái đẹp về mặt ngôn từ (diễm ngữ) không tách khỏi cái “diễm tình”, lời đẹp cốt để nói tình nồng, yếu tố duy mĩ không tách rời yếu tố duy tình. Do vậy, trong trong tác phẩm, khi nói về tình cảm thì phải là “tình thảm thiết”, là “phan luyến sứ tinh lang”... Điều này là hoàn toàn phù hợp với “bản sắc đương hành” của thể loại từ giai đoạn cuối thời Đường đến đầu thời Bắc Tống.  

Bài từ của Khuông Việt đại sư viết theo từ điệu Nguyễn lang quy. Tên từ điệu này lấy từ tích Lưu Thần và Nguyễn Triệu lạc vào cõi Thiên Thai – cõi tiên, sau vì nhớ quê nên từ biệt ra về. Nguyễn lang quy nghĩa là “Chàng Nguyễn trở về”. Tên từ điệu chính là tên khúc nhạc. Mỗi nhạc khúc tự nó có ý nghĩa riêng. Ý nghĩa của khúc nhạc Nguyễn lang quy thể hiện ở chính tên gọi của nó, diễn đạt tình cảm lưu luyến lúc tiễn đưa. Do vậy, nội dung phần lời (từ) điền vào bản nhạc ấy phải phù hợp với nội dung bản nhạc. Điều này đòi hỏi từ nhân nhất thiết phải am hiểu về âm nhạc. Và khi đó, tên điệu (chính là tên nhạc khúc) đồng thời là tên của bài từ (từ đề). Bài Nguyễn lang quy của Khuông Việt đại sư viết về cảnh chia li nên tình cảm trong bài từ rất buồn bã, quyến luyến. Như là một sự mặc định, thơ ca cổ kim khi viết về đề tài chia li thường nhuốm buồn, sự lựa chọn về đề tài ít nhiều đã quy định nội dung tác phẩm và tâm trạng nhân vật trữ tình.

Nếu xét các tác phẩm từ giai đoạn Hoa gian và Nam Đường sẽ nhận thấy có rất nhiều bài viết về đề tài li biệt, song thông thường đó là các cuộc chia li mang màu sắc ái tình. Hoa gian phái có tới 4/5 nói chuyện nam nữ, “nếu không phải niềm vui hội hợp thì cũng là nỗi sầu chia phôi”(12). Nhưng niềm vui hội hợp thì ít mà nỗi sầu chia phôi thường nhiều, bởi vậy giọng buồn thương ai oán bàng bạc trong các tác phẩm từ giai đoạn này. Sáng tác từ thời Nam Đường hiện còn 217 bài, chiếu theo thất tình (bảy trạng thái tình cảm: hỉ - vui sướng, nộ - tức giận, ai - đau buồn, cụ - sợ hãi, ái - yêu thương, ố - căm ghét, dục - ham muốn), thì các bài mang tâm trạng đau buồn chiếm 204 bài (khoảng 90%), các bài mang tâm trạng vui sướng chiếm 13 bài (khoảng 10%)(13). Có thể thấy cảm hứng buồn là cảm hứng chủ đạo trong các sáng từ thời Ngũ đại, nó trở thành một trong những đặc trưng thẩm mĩ của thể loại, quen gọi là “dĩ bi vi mĩ” (lấy buồn là đẹp) và “dĩ tình động nhân”(dùng tình để làm rung động lòng người)(14)Cái “bi” là yếu tố phổ dụng trong các sáng tác từ giai đoạn Ngũ đại, và sáng tác từ của Khuông Việt đại sư cũng không nằm ngoài phạm vi đó.

Nhưng tại sao đương thời trong quan hệ ngoại giao với nhà Tống, triều Tiền Lê đang phải “dùng thuật”, phải “giữ kẽ”(15), Khuông Việt là đại diện cho triều đình Đại Việt, hơn nữa lại là một vị đại sư đức cao vọng trọng mà trong khi đưa tiễn một cách “ngoại giao”, “xã giao” với Lí Giác mà phải “thảm thiết”, rồi còn muốn “vin xe sứ” ở lại? Về điểm này, ta chú ý đến đặc điểm sáng tác có tính chất đặc thù của thể loại từ. Ở khoảng thời Tống trở về trước, làm từ là điền lời vào bản nhạc có sẵn để hát. Từ là sản phẩm “ứng ca nhi tác” (để hát mà viết), để diễn xướng, không phải để đọc. Từ được sáng tác cho ca kĩ hát, ca kĩ vừa là người thể hiện, vừa là người truyền bá, về cơ bản môi trường sáng tác của từ là môi trường âm nhạc, thiên về yếu tố nữ tính hóa, vì thế từ rất bạo dạn trong ngôn tình. Theo đó, hiệu quả thẩm mĩ của một bài từ gồm ba yếu tố căn bản: thanh, sắc, và lời. Thanh tức âm nhạc, nền nhạc của bài từ, do nhạc công diễn tấu; sắc, nữ sắc, chỉ ca nữ, là người thể hiện ca từ; lời, tức khúc tử từ, ca từ (cái ngày ta gọi là từ chính là phần lời này).

Sự diễn xướng từ được tiến hành trong môi trường âm nhạc, có thể được thực hiện ngay trong cuộc rượu - trước chén (tôn tiền, hoặc giả là những không gian thơ mộng và tình tứ kiểu: dưới trăng - nguyệt hạ, trong hoa -hoa gian), thông thường có rượu trợ hứng. Người thưởng thức căn bản là nam nhân: tay cầm chén, tai nghe tiếng nhạc, giọng ca, mắt nhìn nữ sắc, đồng thời thưởng thức cái hay cái đẹp của ca từ. Chỉ trong quy trình này, giá trị nghệ thuật của tác phẩm từ mới được biểu hiện một cách toàn vẹn nhất.

Từ nhân - chủ thể sáng tác - sau khi hoàn tác phẩm của mình, thực chất mới chỉ hoàn thành một công đoạn sáng tác, tiếp tục sau đó, cần phải thông qua ca nữ hát lên, hòa cùng tiếng nhạc, thông qua lời ca tiếng nhạc truyền tới người nghe. Đến bước này, tác phẩm từ mới thực sự hoàn tất. Nói cách khác, một bài từ trong giai đoạn chưa thoát li khỏi âm nhạc, việc tác từ vẫn là “ỷ thanh điền từ”, “ứng ca nhi tác”, để đến với người tiếp nhận cần thông qua khâu trung chuyển, đó là ca nữ.

Con đường đi từ tác giả từ - từ nhân - đến người tiếp nhận như sau:

TÁC GIẢ TỪ - TỪ NHÂN  CA NỮ  NGƯỜI TIẾP NHẬN

Như vậy, ca nữ là khâu trung gian giữa tác giả và người tiếp nhận. Trong trường hợp sáng tác, ứng tác tại chỗ (như trường hợp sáng tác của Khuông Việt địa sư), thì tác giả đồng thời là khán, thính giả - người tiếp nhận. Tác phẩm khi đến ca nữ thể hiện, đối với tác giả đã có khoảng cách nhất định. Ca nữ đã mang dáng vẻ của chủ thể sáng tạo thứ hai, cơ hồ khi hát tác phẩm từ, ca nữ như đang thể hiện tác phẩm, biểu đạt tình cảm của chính mình. Các từ nhân khi sáng tác rất lưu ý đến yếu tố này, từ nhân có thể nhập thân vào đời sống, tâm trạng ca kĩ, thay ca kĩ viết lên nỗi niềm của họ; trong trường hợp sáng tác từ là tâm tư, tình cảm của từ nhân, họ sẽ thông qua ca nữ để biểu hiện, sẽ “nhờ” ca kĩ sẽ “nói thay” cho mình. Chính vì vậy, có những tác phẩm từ tác giả của nó là nam nhân nhưng trong tác phẩm, đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất lại là “thiếp”. Do ca kĩ “nói thay” cho từ nhân, nên tác phẩm có thể có hiện tượng chuyển giọng, có xu hướng nữ tính hóa. Đặc điểm này được nhà từ luận Điền Đồng Chi gọi là “Nam tử Hán nhi tác khuê âm” (Nam tử Hán mà thốt ra lời của người phòng khuê. Điền Đồng Chi: Tây Phố từ thuyết). Từ sự lựa chọn đề tài, những đặc điểm về phương thức tạo tác tác phẩm, môi trường diễn xướng, và vai trò của ca nữ trong việc diễn xướng tác phẩm từ, dễ nhận thấy những câu sướt mướt kiểu “Tình thảm thiết”, “Quyến luyến vin xe sứ” trong bài Nguyễn lang quy của Khuông Việt đại sư chính là biểu hiện của sự chuyển giọng từ nam sang nữ, là ca từ dành cho ca nữ thể hiện, là “giọng loan” như cách nói của Âu Dương Quýnh, cái đẹp của ca từ là để “phụ giúp cho nét đẹp yêu kiều” của ca nữ, tuy kết bài có lồng ghép thêm lời nhắn gửi về sự vụ quốc gia (Xin đem ý sâu xa vì biên cương phương Nam / Tâu cho vua ta biết rõ), song không phải là những lời lẽ ngoại giao do Khuông Việt đại sư phát ngôn một cách hoàn toàn trực tiếp với Lý Giác. Đặt bài từ của Khuông Việt trong trào lưu chung của thể loại từ từ cuối thời Đường đến đầu thời Bắc Tống và nhìn nhận một cách căn bản những đặc trưng thể loại của nó, hẳn ta sẽ không còn băn khoăn rằng tình cảm trong bài từ có phần nhún nhường thái quá, không tương xứng với tinh thần dân tộc như có nhà nghiên cứu đã từng đặt ra.

V.C. 04.04.09

-------------------------------------

(1). Chẳng hạn các bài của Phạm Thị Tú: Về bài Từ đầu tiên và tác giả của nó: Khuông ViệtTạp chí Văn học, số 6 - 1974; Nguyễn Tài Cẩn: Vấn đề lập trường đối với nhà Tống trong bài Vương lang quy của Ngô Chân LưuTạp chí Văn học, số 2 - 1981; Hoàng Văn Lâu: Bài Từ ở thế kỉ X (trong sách Một số vấn đề văn bản Hán nôm học, Nxb. KHXH, H. 1983, tr. 191 - 212); Nguyễn Đăng Na: Về bài “Vương lang quy từ” - Khảo sát và giải mã văn bảnTạp chí Văn học, số 1 - 1995; Nguyễn Đình Phức: Về bài từ Ngọc lang quy của sư Khuông ViệtTạp chí Hán Nôm, số 5 - 2005; Alaxandre Lê: Bài từ Ngọc lang quy và vấn đề văn bản họcThời Đại, số 6, 2002, v.v…

(2). Lê Mạnh Thát: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập II - Từ Lý Nam Đế (544) đến Lý Thái Tông (1054), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2001, tr.452.

(3). Theo văn bản của Đại Việt sử kí toàn thư.

(4). Phạm Thị Tú: Về bài từ đầu tiên và tác giả của nó: sư Khuông Việt, Tạp chí Văn học, số 6/1974.

(5). Hoàng Văn Lâu: Về bài từ ở thế kỉ X (in trong sách Một số vấn đề văn bản học Hán Nôm, Nxb. Khoa học xã hội, 1983).

(6). Viên Hành Bái (chủ biên): Trung Quốc văn học sử, Quyển III. Cao đẳng giáo dục xuất bản xã, 2001, tr. 33

(7). Dẫn theo Trung Quốc văn học sử, Quyển III, Sđd, tr. 35.

(8). Dư Truyền Bằng: Đường Tống từ lưu phái nghiên cứu. Vũ Hán đại học xuất bản xã, 2004, tr. 29.

(9). Dư Truyền Bằng, Sđd, tr.31.

(10). Duy có trường hợp Nam Đường hậu chủ Lý Dực, ban đầu sáng tác theo phong cách chung của thời Ngũ đại, chẳng hạn nó về li sầu thì ví như tơ giăng, “chặt không đứt, gỡ vẫn rối” (Tiễn bất đoạn / Lý hoàn loạn - Điệu Ô dạ đề). Từ năm Thiên Bảo thứ 7 (974), quân Tống hạ Kim Lăng, diệt Nam Đường, Lý Dực bị bắt cầm tù ở Biện Lăng. Trong thời gian bị cầm tù, ông đem sự ưu tư về thân phận, nỗi sầu quốc phá gia vong phổ vào từ, mở rộng phạm vi đề tài của thể loại, tuy được nhà từ luận Vương Quốc Duy cho là: “Thể loại từ đến Lý Hậu chủ tầm nhìn mới rộng, cảm khái mới sâu, mới biến từ của nhạc công thành từ của sĩ đại phu” (Nhân gian từ thoại), song thực chất đây không phải xu hướng chính trong từ phong thời Ngũ đại.

(11). Lê Quý Đôn: Toàn Việt thi lục - “Lệ ngôn” (kí hiệu A.1262, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm).

(12). Dư Truyền Bằng, Sđd, tr. 29.

(13). Dư Truyền Bằng, Sđd, tr. 42.  

(14). Dương Hải Minh trong sách Đường - Tống từ mĩ học (Giang Tô Giáo dục xuất bản xã, 1998) đã chỉ ra các đặc trưng mĩ học của thể loại từ giai đoạn này như: “dĩ phú vi mĩ”, “dĩ diễm vi mĩ”, “dĩ nhu vi mĩ”, “dĩ bi vi mĩ”, “dĩ tình động nhân”...

(15). Nhà Tiền Lê từng sai sư Đỗ Pháp Thuận giả làm Giang lệnh để đón sứ nhà Tống, rồi cùng sứ Tống ngâm vịnh thơ ca. Lí Giác từng “chế” hai câu đầu bài thơ vinh ngỗng của Lạc Tân Vương (Nga, nga, nga / Khúc hạng hướng thiên ca / Bạch mao phù lục thủy / Hồng chưởng bát thanh ba: Ngỗng, ngỗng, ngỗng / Ngẩng cổ hướng lên trời ca hát / Lông trắng nổi bồng bềnh trên nước biếc / Chèo hồng rẽ sóng xanh) thành:

Nga nga lưỡng nga nga,

Ngưỡng diện hướng thiên nha.

(Ngỗng ngỗng, ngỗng một đôi;

Ngửa cổ nhìn chân trời).

Đỗ Pháp Thuận thấy vậy liền ngâm:

Bạch mao phô lục thủy,

Hồng trạo bãi thanh ba.

(Lông trắng trên nước biếc,

Chèo hồng, sóng xanh bơi)

Giác thấy vậy rất lấy làm lạ!

    Xem: Ngô Sĩ Liên: Đại Việt sử kí toàn thư (bản dịch), tập I, Nxb. Khoa học xã hội, H. 1993 tr. 224.

Post by: Vu Nguyen HNUE
09-10-2020