Nghiên cứu khoa học

BÀN THÊM VỀ THUỘC TÍNH LOẠI HÌNH SỬ THI Ở VIỆT NAM


09-10-2020

BÀN THÊM VỀ THUỘC TÍNH LOẠI HÌNH SỬ THI

Ở VIỆT NAM

(qua Kho tàng sử thi Tây Nguyên mới xuất bản)

 

Th.S. Nguyễn Việt Hùng

Khoa Ngữ văn – ĐHSP Hà Nội

Summary

Further research on the features of epic genre in Viet Nam

The traditional concepts of the epic were based on two Ancient  works, Iliad and Odyssey. The epic was narrated in a grand style, a kind of narrative poem, usually called an heroic poem, in which real or fictitious events, usually the achievements of some heros.

            During recent years, the Vietnames folkloristics have discovered, collected and pusblished many epics. It is difficult to claim that all of the works are the epics or not.

            In this report, the main point is that the Vietnames epics have some separate characteristics. Although my opinions about the epic in Viet Nam are not in the best accordance with the traditional concepts of what an epic is. But, it is necessary to affirm the certain valid of Vietnames epics. 

            In my opinion, there are four characteristics of the epic genre in Viet Nam: 

  1. The traditional characteristics (the genre’s funtion in the popular life)
  2. The communal performance
  3. The huge themes (about the past events)
  4. The length narrative poem (the literary fortunes come between the prose works)

Việc phát hiện, sưu tầm, nghiên cứu sử thi ở Việt Nam đã có lịch sử hơn 80 năm (kể từ 1927, công bố sử thi Đam San). Cho đến nay, đã có nhiều tác phẩm sử thi của nhiều tộc người ở các địa phương (chủ yếu là khu vực Tây Nguyên) được giới thiệu. Bên cạnh sự khó khăn của việc lưu giữ, việc giới thiệu tác phẩm sử thi các tộc người ở Việt Nam gặp phải khó khăn ở chỗ: đánh giá, thẩm định các tác phẩm đó như thế nào? Việc xem một tác phẩm có phải sử thi hay không cũng gặp nhiều lúng túng. Truyền thống lí luận của các nước phương Tây về loại hình sử thi đã khiến nhiều nhà sưu tầm, nghiên cứu đánh giá dè dặt về những tác phẩm mới được phát hiện ở Tây Nguyên 1. Những quan niệm sử thi của hệ thống lí luận, mĩ học phương Tây, về cơ bản được hình thành trên cơ sở tư liệu sử thi cổ đại Hi Lạp mà cứ mỗi một phát hiện sử thi của thế giới (như Kalêvala của Phần Lan2) thì lại làm thay đổi quan niệm của giới khoa học.

            Cho đến nay, cùng với những tác phẩm sử thi trước đó đã xuất bản, Kho tàng sử thi Tây Nguyên được giới thiệu trong thời gian 2004-2007 gồm 75 tác phẩm, trong đó, có nhiều tác phẩm mà nội dung và hình thức đã vượt ra khỏi sự bao quát của lí luận. Chính vì thế, tôi cho rằng, chúng ta cần tách mình ra khỏi những cái phổ quát để khẳng định những đặc trưng của sử thi dân tộc. Nhưng bên cạnh đó cũng thấy được trong từng tác phẩm, có những đặc điểm, những giá trị hoàn toàn có thể so sánh được với những tác phẩm gọi là sử thi trên thế giới.

TS Baumann (ĐH Indian, Hoa Kỳ), đã nêu ra 6 tiêu chí để xác định một tác phẩm có phải là sử thi hay không, như sau:

(1) Mang tính truyền thống

(2) Tính truyện kể

(3) Kết cấu thể thức thơ (có độ dài tương đối)

(4) Diễn xướng trong công chúng

(5) Có người diễn xướng chuyên môn

(6) Kể lại sự kiện quan trọng thời quá khứ 3

            Ông khẳng định rằng: Nếu một tác phẩm có đủ hệ thống tiêu chí trên thì bất cứ học giả nào cũng sẽ chấp nhận là sử thi.

            Trong khi đó, lí luận về thi pháp thể loại văn học dân gian xác định những phương diện để phân biệt thể loại này với thể loại khác. Chủ yếu các nhà nghiên cứu dựa trên các tiêu chí cơ bản như sau:

  1. Chức năng của thể loại
  2. Những yếu tố thi pháp thể loại
  3. Hình thức diễn xướng (mối qua hệ thể loại với đời sống văn hoá)
  4. Hệ đề tài (nội dung tác phẩm) 4

Tôi cho rằng 6 hay 4, nhiều hơn hay ít hơn những tiêu chí trên thì cũng không phải là giới hạn hay những tiêu chí cuối cùng cho việc xác định một tác phẩm có phải là sử thi hay không. Nhưng ít nhất là chúng ta có những căn cứ nhất định để xác định loại hình tác phẩm. Tôi thấy rằng, sáu tiêu chí trên có sự tương đương, gần như thống nhất với bốn tiêu chí của thi pháp học về thể loại văn học dân gian. Đặc biệt là trên cơ sở tư liệu những tác phẩm mới được xuất bản trong Kho tàng sử thi Tây Nguyên (75 tác phẩm), tôi đề xuất các tiêu chí thẩm mĩ của thể loại sử thi ở Việt Nam:

(1) Tính truyền thống của tộc người, cộng đồng (chức năng thể loại)

(2) Tính diễn xướng cộng đồng (nghệ nhân diễn trước công chúng)

(3) Đề tài, nội dung có tính rộng lớn, kể về sự kiện trọng đại của quá khứ

(4) Hình thức truyện kể tự sự trường thiên xen văn vần (yếu tố thi pháp)

            Tôi xem xét loại hình sử thi Tây Nguyên qua những phương diện trên, cụ thể từng vấn đề như sau:

1. Tính truyền thống (chức năng thể loại trong đời sống cộng đồng)

Sử thi nảy sinh và tồn tại trong đời sống các tộc người không chỉ với tư cách một tác phẩm nghệ thuật mà còn là pho lịch sử, cuốn bách khoa toàn thư của dân tộc đó. Chẳng thế mà người Ấn Độ đã từng tự hào nói rằng “Cái gì không có trong sử thi Mahabharata thì cũng không thể tìm ở đâu trên đất nước Ấn Độ” 5. Sức ảnh hưởng của sử thi đối với tâm thức con người vô cùng lớn lao, sử thi được ví như một loại thánh kinh của tộc người, là niềm tự hào của họ khi bước ra thế giới văn minh. Mỗi áng sử thi vượt qua khuôn khổ của một tác phẩm văn học để đảm nhận những chức năng quan trọng trong đời sống, tín ngưỡng, văn hoá của cộng đồng. Đẻ đất đẻ nước là mo tang lễ của người Mường, những lời tang ca đó tiễn đưa linh hồn người chết về thế giới bên kia. Các tác phâm sử thi Tây Nguyên cũng tham gia vào nhiều sự kiện trọng đại của cộng đồng, có ý nghĩa đặc biệt với sinh hoạt cũng như tín ngưỡng của đồng bào nơi đây.

Chẳng hạn như loại hình sử thi của người Raglai, akhàt jucar. Điểm đáng chú ý là khác với các tộc người khác, người Raglai giữ gìn akhàt jucar trong những gia tộc. Vì người Raglai có rất ít họ (8 họ), duy trì dòng họ theo truyền thống gia tộc mẫu hệ, nên dòng họ có tính chất bền vững, thiêng liêng. Chính vì thế, tác phẩm sử thi được nâng niu, gìn giữ như là tài sản quý báu của tổ tiên, là lời truyền dạy của tổ tiên và khi hát lên những tác phẩm đó thì họ như được gặp gỡ, sống lại truyền thống anh hùng của tộc người.

Trong lời giới thiệu cuốn Uđai - Ujàc, tác giả Vũ Anh Tuấn đã cho biết: người hát kể tác phẩm là bà Cao Thị Thanh cũng được kế thừa việc thuộc và hát kể tác phẩm từ ngày còn nhỏ, được nghe người cha của bà hát. Bên bếp lửa, từ đêm này qua đêm khác, những dịp nông nhàn, khi có lễ hội... những câu hát ngân nga trầm bổng về các câu chuyện, người anh hùng lại vang lên trên nhà sàn. "Và dường như chỉ mỗi lần có một akhàt jucar được diễn xướng thì người Raglai mới như được trở về quá khứ tráng lệ, huy hoàng" 6.

Do đó, sử thi luôn xây dựng các hình tượng anh hùng đại vĩ đại, mang nhiều phẩm chất cao đẹp của cộng đồng và đạt được những chiến công kì vĩ, đem lại uy danh, sự giàu có cho cộng đồng. Tính chất nhiều mặt của hình t­ượng sử thi không làm mất đi ý nghĩa khái quát của nó bời vì trong khi xây dựng nhân vật, “sử thi đã trang bị cho nó tất cả sức mạnh của tâm lí tập thể. 7

Tính truyền thống cũng thể hiện qua thế giới ngôn ngữ tác phẩm. Đó là sự xuất hiện của nguồn ngữ liệu cổ, mà hiện còn xuất hiện rất ít trong ngôn ngữ hằng ngày. Nhiều danh từ chỉ đồ vật, cấy cối, cách diễn đạt... có lẽ chỉ còn trong kí ức của những nghệ nhân. Đây là đặc điểm quan trọng tạo nên "không khí của thời đại sử thi" nhưng cũng chính vì thế mà có những đoạn khó hiểu, đôi chỗ mà cả nghệ nhân hát kể lẫn người biên tập đều không chú thích được.

            Bên cạnh đó, tác phẩm rất giàu những "điển tích" truyền thống của người các tộc người. Đó là sự xuất hiện của những thần thoại, truyền thuyết mà nếu người nghe không am tường về văn học, văn hóa tộc người thì rất khó hiểu. Trong các tác phẩm, mỗi địa danh, mỗi tên núi tên sông, tên nhân vật đều gắn với một huyền thoại. Chẳng hạn sử thi của người Raglai có hệ thống các vị thần: Ing Dai Tacai Lingỉq (Thần Chân trời Chiến trận), thần Cơi Masrĩh, Mỏq Vila (Phụ trách việc sinh nở), thần Via Dara, Dalam, thần Lửa putau Tumur... Mỗi danh từ đó đều gắn với truyền thuyết, những câu chuyện xa xưa của người Raglai, những địa danh có khi chỉ còn trong kí ức người già. Hay đơn giản như một chi tiết "nước uống tai cá chình" cũng phải có câu chuyện giải thích chúng ta mới hiểu được (Theo truyền thuyết của người Raglai kể lại rằng: Ngày xưa trời làm hạn hán đến bảy năm không có một hạt mưa. Đất đai khô cằn vì không có nước. Có một con cá chình ở dưới suối đã tích được nước ở trong tai. Muông thú và loài người vì thế tìm được nguồn nước uống).8

Cho nên, Davlêtôp đã nhận xét: Chức năng của sử thi trong thời kì ban đầu: Có một thời, những thiên tr­ường ca mang tính chất sử thi là một pho sách độc đáo về những kiến thức cung cấp cho mỗi thế hệ mới khái niệm về lịch sử của dân tộc mình, về cuộc đấu tranh của dân tộc đó với thiên nhiên và với những bộ lạc lân cận. Loại sử thi đó xuất hiện như là truyền thuyết, nh­ư một sự củng cố những kí ức về quá khứ, và thậm chính­ một sự củng cố kinh nghiệm lao động.9

2. Tính diễn xướng cộng đồng (nghệ nhân hát kể trước công chúng)

            Trước khi phát hiện ra sử thi phương Đông, thì quan niệm về sử thi thế giới chủ yếu dựa trên những ý kiến của Hêghen về tư liệu sử thi phương Tây (Iliat và Ôđixê). Đó là những tác phẩm vĩ đại của người Hi Lạp cổ đại, một dân tộc hùng mạnh mà các thành tựu văn hoá, văn minh của họ là tiền đề cho những thành tựu của châu Âu hiện đại.

            Trong hình dung của Hêghen và những nhà mĩ học phương Tây, sử thi được coi như thành tựu của nền văn học viết với những tác phẩm được văn bản hoá. Sử thi là thành quả của quá trình văn bản hoá lâu dài, với sự tham gia của lớp lớp thế hệ những nghệ nhân chuyên nghiệp (Hôme – có nghĩa là người kể chuyện). Văn bản sử thi đó đã vĩnh viễn mất đi hoàn cảnh và hình thức diễn xướng ban đầu của nó, không còn những nghệ nhân tiếp tục truyền thống hát kể sử thi. Các tác phẩm tồn tại trên văn bản, nằm trên trang giấy.

            Sử thi Tây Nguyên cũng như một số áng sử thi phương Đông khác đã đem đến cái nhìn mới về loại hình sử thi.

Những tác phẩm sử thi Tây Nguyên từ khi phát hiện ra đến nay (1927-2007) vẫn đang tồn tại trong đời sống cộng đồng, được diễn xướng trong nhiều dịp khác nhau của buôn làng. Ngoài những bằng chứng của việc sưu tầm ghi âm những cuộc diễn xướng, hát kể sử thi hiện tại, những tác phẩm được xem làm kinh điển trước đây (Đam San, Xinh Nhã, Khinh Dú...) đến nay vẫn có thể sưu tầm được những dị bản mới 10, bổ sung, hoàn chỉnh cho những tác phẩm đã xuất bản. Điều này cho thấy sức sống lâu bền và mãnh liệt của sử thi trong đời sống cộng đồng. Ngày ngày, những tác phẩm đó vẫn đang tồn tại trong các tộc, được lưu giữ trong “đầu khôn người già” và diễn xướng trước toàn thể dân làng.

Ví dụ, người Ba Na có cả một truyền thuyết về hơmon (xem lời giới thiệu “Giông, Giơ mồ côi từ nhỏ11. Câu chuyện kể về một chú bé mồ côi, tật nguyền và nghèo khổ được thần tiên dạy cho những câu chuyện về cuộc chiến của những người anh hùng. Cậu đã đem những câu chuyện đó kể lại cho dân làng nghe, khiến cho mọi người có thể “cất đi sự nhọc nhằn, vất vả… dân làng đỡ buồn, cuộc sống vui vẻ hẳn lên” 12. Từ đó người Ba Na biết hát kể sử thi.

Hình thức hát kể hơmon tương đối tự do, thoải mái, không bị câu thúc bởi nghi lễ hay phép tắc trình diễn. Nghệ nhân có thể trình diễn tác phẩm bất cứ lúc nào, tốt nhất là có không gian yên tĩnh, thêm vài chén rượu cho cảm hứng dâng trào13.

Sử thi Mơ Nông cũng là một hiện tượng văn hoá nghệ thuật đặc biệt, trước hết vì khối lượng đồ sộ của nó. Hơn 139 tác phẩm được sưu tầm14 nằm trong cấu trúc chung của một bộ sử thi đồ sộ có mở đầu và kết thúc, nhất quán về các nhân vật chính về địa điểm trung tâm, về khu vực hoạt động của các nhân vật. Như vậy chúng ta có một tập đại thành sử thi Mơ Nông – ot nrông khổng lồ, thuật ngữ khoa học gọi là sử thi phổ hệ.

Trong ngôn ngữ của người Mơ Nông, ot có nghĩa đen là cò cưa, nghĩa bóng là hát, hát kéo dài mãi không hết. Còn nrông (từ cổ của nó là ndrông) là tên gọi một loại cây cao, lá to, vỏ dày, đồng bào lấy vỏ cây se dây làm thừng cột trâu bò, voi. Đồng thời, nrông có nghĩa là những câu chuyện xa xưa. Như vậy, nghĩa bóng của ot nrông là hình thức hát kể các câu chuyện xa xưa của tộc người Mơ Nông15. Đây là từ tương đương với khan (Ê Đê), hơ mon (Ba Na), hơri (Gia Rai), mo (Mường)… dùng để chỉ loại tác phẩm trường thiên tự sự của người bản tộc.

Ot nrông của người Mơ Nông được các nghệ nhân diễn xướng trong nhiều hoản cảnh khác nhau (lễ hội, sinh hoạt cộng đồng, trên nương rẫy...). Hình thức diễn xướng mang tính nghệ thuật tổng hợp, kết hợp các yếu tố hát, kể, đối thoại và làm điệu bộ theo kiểu diễn xướng sân khấu.

Tương tự như vậy, loại hình akhàt jucar của người Raglai cũng không quy định nghiêm ngặt về hình thức diễn xướng (thời gian, không gian, đối tượng hát kể, nghe...). Có thể nói, ngôi nhà của gia tộc có chức năng văn hóa quan trọng. Những khi hát trong nhà, "con trai ngồi xếp bằng. con gái ngồi xếp nghiêng"... "Người hát cũng ngồi nhưng khi mệt thì cứ nằm mà hát cũng được. Lúc bấy giờ thì hát trơn, về sau này không rõ vì sao mới có thêm nhạc đệm"16

            Người diễn xướng cũng không phải chuyên nghiệp, mà phần lớn có tính chất gia truyền. Hầu hết họ không biết chữ, vậy mà điều kì lạ là từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời này sang đời khác, những áng sử thi được lưu truyền trong dòng chảy văn hóa từ xa xưa cho đến bây giờ của cộng đồng Raglai. Người hát kể có niềm tin thiêng liêng vào câu chuyện mình kể. Họ có thể chỉ cho chúng ta "nơi tảng đá thần, cây cau thần một bụi" là nơi diễn ra sự kiện nào của tác phẩm. Người ta tin rằng đâu đó trên ngọn cây, trên sông suối, trên trời... các vị thần, tổ tiên đang ngự trị nghe lời khấn cầu, lời hát của họ sẽ trở về.

            Trong chương trình "Lung linh di sản Raglai"17 (phát trên VTV1 ngày 10/3/2007), nghệ nhân đã dẫn đoàn nghiên cứu đến chân núi để chỉ núi Camau, nơi hóa thân của thần Camau. Trước khi hát kể, nghệ nhân làm lễ cúng thần, cúng tổ tiên bằng lễ vật rất đơn giản. Nghệ nhân cầu xin chú Gà trống thần báo tin cho tổ tiên, cho phép ông được kể chuyện về họ...

            Nhìn chung, người hát kể sử thi Raglai cũng giống với nghệ nhân hát sử thi của một số dân tộc khác. Giọng điệu của những câu hát đều đều, trầm buồn, có lúc tha thiết, lúc hào hùng, sảng khoái. Sức hấp dẫn của câu chuyện do đó không nằm ở động tác, cử chỉ của người hát mà chủ yếu thông qua nét mặt, sự thay đổi giọng của nghệ nhân. Ngoài đoạn dẫn chuyện, người kể bắt vào giọng nhân vật. Có thể nói, nghệ nhân chính là những pho sử thi sống. G.S Ngô Đức Thịnh cho biết: có bà cụ người Raglai đã hát cho đoàn công tác khoảng 150 giờ, có tác phẩm hơn 30 băng ghi âm. Sức lực, trí nhớ và hơn hết là tấm lòng của nghệ nhân làm chúng ta kinh ngạc và xúc động. Ông cho biết thêm, những tác phẩm của người Raglai tuy ít nhưng có thể làm thay đổi những quan niệm về sử thi!18

3. Nội dung có tính rộng lớn, kể về sự kiện trọng đại của quá khứ

Sử thi biểu hiện toàn bộ đời sống văn hoá, lịch sử của cộng đồng, thể hiện quá trình vận động của tộc người đó qua các giai đoạn khác nhau. Như Davlêtôp đã nhận xét: Trong thời đại anh hùng, cái cổ vũ các dân tộc và quyết định sự phồn vinh của thể sử thi là trình độ văn hoá của một dân tộc nhất định, đó là việc dân tộc ấy nhận thức đ­ược bản thân mình với tư­ cách là một tập thể vô cùng rộng lơn Sử thi anh hùng ca là sự phản ánh việc giác ngộ của cái tập thể nhân dân đang đư­ợc hình thành đó.

Những tác phẩm phản ánh trực tiếp những thắng lợi của con ngư­ời đối với thiên nhiên và sự tạo ra những công cụ và ph­ương tiện sản xuất- những tác phẩm đó không chỉ là những truyền thuyết riêng lẻ, mà còn là những thiên trư­ờng ca có tính chất sử thi cỡ Kalêvala là thiên tr­ường ca đã cho ta một khái niệm về thời kì đầu tiên của sự phát triển xã hội 19

Như vậy, sử thi bao trùm nội dung rộng lớn. Khi tìm hiểu sử thi Tây Nguyên, tác giả Phan Đăng Nhật cho rằng có ba hệ đề tài phổ biến của sử thi là chiến tranh, lao động và hôn nhân, trong đó chiến tranh là đề tài trung tâm và chi phối các đề tài còn lại. Đúng là bản chất thẩm mĩ của thể loại sử thi phải ca ngợi những phẩm chất anh hùng của thời đại anh hùng qua việc xây dựng các nhân vật kì vĩ.

Tuy nhiên, bằng việc công bố 75 tác phẩm mới, chúng ta thấy rằng, đề tài chiến tranh không hẳn đã chiếm ưu thế. Bởi vì, hầu hết các tộc người ở Tây Nguyên trước 1945 đều ở giai đoạn cuối của chế độ công xã nguyên thuỷ. Khi đó chưa có sự hình thành các bộ lạc riêng biệt, vì thế mà chưa có những cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc. Đối với dân tộc cổ sơ, chiến tranh chưa phải là vấn đề quan trọng và duy nhất. Việc tạo lập cuộc sống, xây dựng bản làng, tổ chức sản xuất mới là cốt yếu, có ý nghĩa sống còn đối với họ. Vì thế, khi nhận xét về đặc điểm của những tác phẩm sử thi Tây Nguyên, tác giả Đỗ Hồng Kỳ thường gọi những trận đánh giữa các nhân vật sử thi là “giao tranh” thay vì “chiến tranh”. Đó là những trận đánh diễn ra giữa hai người, chứ không phải là sự vận động, huy động toàn thể dân làng, chiến tranh bộ lạc như việc đánh trận trong Đam San”, Khinh Dú, Xing Nhã...

Chính vì sử thi ở Việt Nam nói chung và sử thi ở Tây Nguyên nói riêng là kết quả của một bối cảnh lịch sử - văn hoá cụ thể đó nên đề tài chiến tranh không phải là duy nhất và phổ biến nhất. Nhưng do tính chất quy mô hoàng tráng cũng như đặc điểm thẩm mĩ của thể loại là luôn xây dựng những anh hùng với chiến công kì vĩ, mang sức mạnh của cả cộng đồng nên trong sử thì thường đề cập đến bối cảnh chiến tranh.

Ví dụ, loại hình akhàt jucar của người Raglai có nội dung rất phong phú, trong đó phản ánh quan niệm, hoạt động xã hội, hoạt động chế ngự thiên nhiên, phong tục tập quán… từ thuở xa xưa của cộng đồng người Raglai. Tác phẩm đặc biệt biểu dương các nhân vật anh hùng trong đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh xã hội mang dáng dấp anh hùng ca (như Udai - Ujàc). Một số tác phẩm khác thông qua hành động nhân vật để lí giải hình thái núi non xứ sở, có bản thấp thoáng thiên thần thoại mà bối cảnh là thời tạo thiên lập địa.

Đối với người Raglai, lịch sử đã ghi nhận những cuộc chiến tranh giữa các thế hệ người Raglai, Chăm với quân xâm lược Jawa (Malaixia) thế kỉ VIII - IX, quân Cur (Campuchia) thế kỉ X; cuộc chiến giữa hai tộc người Chăm - Raglai thông qua xung đột giữa hai bộ tộc Cau và Dừa (cuối thế kỉ XI)... Dấu ấn của những cuộc chiến tranh đó đã in đậm trong kí ức nhân dân và thể hiện một cách sinh động trong tác phẩm.

Tác phẩm Amã Chi Sa mô tả hai cuộc chiến của người Raglai: Đánh giặc Cur, Jawa và đánh Vua thần Lửa. Mục đích của các cuộc chiến đấu đều nhằm bảo vệ sự yên bình, khẳng định uy danh của của gia tộc, của xóm làng. Đề tài chiến tranh chiếm số trang, số lời lớn trong sử thi Amã Chi Sa nhưng qua phân tích tôi thấy rằng, chiến tranh không phải là đề tài cốt lõi. Tác phẩm cho thấy sự vận động và phát triển về mặt xã hội, những thành tựu văn minh buổi đầu của cộng đồng: xây dựng bản làng, gia tộc; chinh phục tự nhiên, siêu nhiên để tạo lập cuộc sống. Những sự mô tả về cuộc chiến trong tác phẩm là sự ảnh hưởng bởi tư duy thần thoại trong thời đại sử thi: hình tượng hóa những chiến công vĩ đại của con người bằng các vị thần và cuộc chiến giữa các vị thần đó. Chính kiểu tư duy đặc thù này đã phân biệt một tác phẩm truyện kể dân gian thông thường (dạng truyền thuyết) với loại hình sử thi. Tôi cho rằng, không cứ nhất nhất tác phẩm sử thi đích thực phải có những trận chiến hoành tráng, mô tả những anh hùng có khả năng xoay chuyển lịch sử mà những chiến công trong lao động, trong việc xây dựng buôn làng và giữ gìn những giá trị văn hóa thực sự có ý nghĩa với cộng đồng, với sự phát triển của tộc người đó.  

Điểm đáng chú ý là đề tài lấy vợ trong các tác phẩm đã tạo ra lối “trì hoãn sử thi”. Đây là đặc trưng mang tính thẩm mỹ của thể loại. Trong tác phẩm Giông giao tranh hạ nguồn cứu dân làng20khi giao chiến với kẻ thù ở trên trời, Giông đã hai lần xuống mặt đất, đến làng hạ nguồn nghỉ ngơi, uống rượu, trò chuyện với dân làng. Một lần chàng đã đính ước với Dreng Yang. Sự đan xen cảnh chiến trận và cảnh yêu đương tạo nên nét đẹp lãng mạn của tác phẩm sử thi. Thủ pháp này khiến thời gian của sự kiện như bị kéo dài ra, tạo nên sức hấp dẫn độc đáo của tác phẩm. Do đó, thời gian trong tác phẩm không đồng nhất với thời gian sự kiện: cuộc chiến giữa Giông với kẻ thù  nhiều đoạn mô tả là vài ngày; khi xuống mặt đất, mọi người nói là vài tháng; khi trở về thượng nguồn, người ta nói là vài năm…

Thủ pháp trì hoãn thời gian trong sử thi cũng góp phần thực hiện chức năng của thể loại: mô tả được toàn diện mọi mặt đời sống của cộng đồng. Dường như các nghệ nhân hát kể có sự nhấn nhá, từ tốn. Họ không vội vàng diễn kể hết tác phẩm, đi đến đích cuối cùng của sự kiện và chiến công của những người anh hùng. Họ muốn tạo ra khoảng thời gian ngừng nghỉ giữa các sự kiện để có thể mô tả các phương diện phong tục, nghi lễ, đời sống của cộng đồng. Chính thủ pháp này tạo nên tính phổ quát rộng lớn của sử thi, làm nên giá trị to lớn của thể loại.

Nếu những người đọc Iliat thích thú với đoạn mô tả chiếc khiên thần của Asin như một lối “trì hoãn thời gian” điển hình, thì ở đây, chúng ta cũng bắt gặp những cách miêu tả tương tự. Chiếc khiên của Giông đúng là một kiệt tác nghệ thuật. Đó cũng là vật có phép thuật giúp Giông làm ra lửa hoặc mưa bão: “Vành khiên của họ làm bằng bạc, bằng vàng. Mỗi lần đỡ lên đỡ xuống có ánh mặt trời chiếu vào thì toả sáng rực rỡ. Khi họ quay khiên thì thấy rõ mặt khiên thật đẹp. Những người anh hùng đang giao tranh, tấn công nhau rất mạnh mẽ. Họ bật khiên làm ra lửa, tạo ra gió mưa. Chỉ có người hùng mạnh, tài giỏi mới có thể điều khiển khiên như vậy, người bình thường không thể nào có. Ở thượng nguồn, chỉ có Giông làm được khiên quí hiếm ấy. Bọn Giơ lúc đánh nhau thường đứng sau Giông để tránh luồng gió mạnh khi bật nút khiên ra”.

Như vậy, sử thi trong khi tránh miêu tả những sự kiện lịch sử có thật, đã phản ánh một cách chân thực d­ưới dạng khái quát những quá trình lịch sử chủ yếu đã bao hàm những tài liệu rất chính xác về lịch sử của những quan hệ xã hội, gia đình, của nền văn hoá 21

4. Hình thức tự sự trường thiên xen văn vần (yếu tố thi pháp)

Hình thức tồn tại của sử thi là những câu chuyện kể văn xuôi xen lẫn văn vần. Đó là những thiên tự sự trường thiên, là sự tổng hòa nhiều thành tựu văn học, nghệ thuật của của các tộc người ở Tây Nguyên.

Trước hết, chúng ta xem xét về quy mô của sử thi Tây Nguyên. Nếu chúng ta so sánh tác phẩm với tác phẩm thì có thể khó tìm thấy một văn bản nào của Kho tàng sử thi Tây Nguyên có thể sánh với Iliat, Ôđixê hay hai bộ sử thi hoành tráng của người Ấn Độ nhưng nếu nhìn một cách tổng thể thì hệ thống tác phẩm của từng tộc người (chẳng hạn số lượng sử thi anh hùng của Ê Đê; ot ndrông của Mơ Nông; Giông của Ba Na...) cũng hết sức vĩ đại. Lí giải cho sự tồn tại riêng rẽ, nhỏ lẻ của hệ thống tác phẩm sử thi Tây Nguyên không khó, chủ yếu dựa vào đặc điểm thời đại ra đời của chúng. Thời cổ sơ của các cộng đồng Tây Nguyên khiến chúng ta không có một Hôme hay một Vyara, những nghệ nhân chuyên nghiệp, để có thể xâu chuỗi, gắn kết các tác phẩm đơn lẻ thành một pho sử thi vĩ đại. Nhưng bù lại, dạng hiện tồn của những tác phẩm ở Tây Nguyên cho thấy trạng thái nguyên sơ của sử thi: tính hồn nhiên của tư duy, tính cổ xưa của ngôn ngữ, tính giản đơn của kết cấu và đặc biệt là tính sống động của diễn xướng.

Bên cạnh những hệ thống đồ sộ (sử thi liên hoàn) thì sử thi Tây Nguyên cũng có những đỉnh cao và như tôi đã nói, có những phương diện có thể sánh với những giá trị sử thi trên thế giới. Tôi muốn nhắc đến những tác phẩm: Đam San (bản mới), Mrong Đăm, Uđai – Ujàc... Giá trị của những tác phẩm này không chỉ thể hiện ở độ dài, dung lượng của chúng mà chủ yếu là chúng thể hiện đầy đủ những đặc điểm thẩm mĩ của thể loại, đạt những kết tinh nhất định ngôn ngữ, kết cấu, cũng như việc xây dựng hình tượng nghệ thuật.

            Đặc điểm thứ hai của văn bản tác phẩm là sự tham gia với mật độ dày đặc các thành ngữ, tục ngữ, những từ ngữ cổ, những hình thức nghệ thuật ngôn từ dân gian. Ví dụ, đoạn Đam San khóc vợ là trường đoạn đặc biệt hấp dẫn do sự tham gia của loại hình hát khóc (khốc) của người Ê Đê. Những lời lẽ, giọng điệu của nghệ nhân tạo ra sức ám ảnh sâu sắc với người nghe, làm xúc động lòng người22. Chúng ta phải tiếp nhận tác phẩm từ việc trình diễn của nghệ nhân cũng như am hiểu tư duy của người Ê Đê thì mới tránh được những nhận định chủ quan (ví như: Đam San không yêu hai người vợ, chàng quyết liệt chống nối dây... nếu tư duy một cách giản đơn như vậy thì sẽ khó hình dung ra việc tác phẩm lại có đoạn khóc vợ của Đam San khi chàng bước lên nhịp cầu thang thứ chín; việc chàng lên trời cầu xin cho hai vợ sống lại...). Đây chính là đặc điểm của kiểu tư duy một đi không trở lại mà Prôp đã nhắc đến trong tác phẩm của ông khi bàn về các vấn đề của phôncơlo.

Cách nói ví von hằng ngày được người dân cộng đồng hết sức ưa thích và được trình diễn trong lời kể tả của sử thi. Cách diễn đạt như vậy giúp cho nghệ nhân có thể dùng lời ít mà diễn tả ý nhiều, khiến câu văn thêm cô đọng, súc tích. Đặc biệt hình thức tục ngữ, thành ngữ cho thấy rõ nét văn hóa, đặc tính của các tộc người trong việc biểu đạt: tư duy nói ngược, ưa ví von, hình tượng, thậm chí có những chỗ có yếu tố tục chất phác, hồn nhiên.... Chẳng hạn những đoạn miêu tả trong tác phẩm Ama Chisa tràn đầy âm thanh nhờ sự kết hợp của ngôn ngữ trầm bổng cũng như độ co giãn của những câu văn:

Đánh chiêng cổ nổi hoa văn, chiêng hoa văn trái mây

Đánh sao cho tiếng mãla vọng, tiếng chiêng ngân vang kêu beng beng

Phá đi cái yên lặng của núi rừng

Phá đi sự vắng khách của chủ nhà

Cho khách qua đường, cho mọi người đến chỗ ở của mình

Ví dụ, loại hình khàt jucar của người Raglai là dạng truyện hát. Những yếu tố cố định, những công thức diễn đạt có lặp lại đôi chỗ trong tác phẩm nhưng nhìn chung mật độ không nhiều (như ở sử thi Mơ Nông). Vì thế, số trang của những tác phẩm như Uđai – Ujàc hay Amã Chi Sa không lớn nhưng tác phẩm đầy ắp những sự kiện, ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Có lẽ vì thế mà nghệ nhân hát kể, ngoài trí nhớ tuyệt vời, một chất giọng tốt còn phải là người nhớ nhiều và biết vận dụng thành ngữ, tục ngữ, dân ca vào trong câu hát, lời hát. Những làn điệu dân ca như siri, majiêng, alơu (các hình thức đối đáp văn vần, dân ca...), được xen kẽ vào lời kể, tạo nên sự đa dạng sắc thái biểu cảm, phù hợp với giọng điệu, ngôn ngữ của các nhân vật, diễn tả những trạng thái cảm xúc khác nhau. Đoạn miêu tả cảnh yên bình của núi rừng mà chúng ta có thể bắt gặp ở bất kỉ tác phẩm nào của người Mơ Nông - những công thức kể tả23 - sẽ không lặp lại ở bất cứ tác giả văn học viết nào ở sự hồn nhiên, chất phác, sự giản dị nhưng cũng đầy sức ví von, liên tưởng của ngôn ngữ:

Đàn lợn rừng ngủ khắp bở rẫy

Đàn chim bum ngủ khắp bụi gai

Đàn chim én choàng cánh nhau ngủ

Đàn con nai ngủ ngáy rừng non

Đàn kiến koh kiến rkay đều ngủ

Đàn chuột đồng chuột cỏ đều ngủ

Đàn con cá ngủ yên trong nước

Vực nước sâu ngủ yên ngừng chảy

Gió yên lặng ngủ yên trên trời

Đàn chim cu ngủ trên gốc cây

Đàn con trâu ngủ yên trong ao

Con diều lá ngủ yên trong gió

Đàn con lợn choàng đùi nhau ngủ

Đàn con trâu kề sừng nhau ngủ

Đàn con dê kề móng nhau ngủ

Rìu rong bồ áp ngực nhau ngủ

Lúa trong bồ áp hạt nhau ngủ        

(724-740)24     

 

Kết luận

Như vậy, Kho tàng sử thi Tây Nguyên có những đặc điểm của sử thi thế giới (1, 3 và 4), điểm khác biệt lớn nhất là tính sống động của loại hình sử thi Việt Nam trong đời sống các tộc người (điểm 2). Tuy nhiên, trong những phương diện trùng khớp với đặc điểm sử thi thế giới thì không phải sử thi Tây Nguyên không có những nét đặc thù: ví như về đề tài, nội dung phản ánh, tính truyền thống...

Hiện trạng của các loại hình sử thi ở Tây Nguyên cũng cho thấy những quy luật phát sinh, phát triển và tồn vong của các loại hình văn hoá các tộc người. Có tộc người sớm phát triển ngôn ngữ, văn hoá thì đạt được những thành tựu nổi bật, kết tinh những hiện tượng văn hoá nổi bật (Ê Đê, Raglai). Nhưng có tộc người đạt thành tựu nhờ ở sự đa dạng các loại hình, hiện tượng văn hoá. Hệ thống hơmon của người Ba Na, ot ndrông của người Mơ Nông nằm trong khuynh hướng thứ hai. Vì thế mà khi đánh giá mỗi tác phẩm sử thi, ngoài việc đặt tác phẩm vào khuôn khổ chung, hệ thống tiêu chí chung của loại hình sử thi thế giới thì chúng ta cần phải đặc biệt lưu ý về thời đại ra đời của loại hình tác phẩm ở từng tộc người khác nhau. Cũng vì nhận thức sử thi là một quá trình, cho nên quan niệm về sử thi sẽ không nhất thành bất biến nhưng điều quan trọng hơn mọi lí luận là việc chúng ta đã bảo lưu được những tác phẩm truyền miệng của các cộng đồng Tây Nguyên và giới thiệu với đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước. Sự hiện diện của những tác phẩm sử thi Tây Nguyên trong kho tàng văn hoá dân gian Việt Nam cũng là bằng chứng khẳng định giá trị, thành tựu văn hoá của các tộc người đó trong bức tranh tổng thể văn hoá Việt Nam.

 

CHÚ THÍCH

1. Thái độ dè dặt của dư luận và những người nghiên cứu trước hết bởi số lượng của những tác phẩm sử thi mà “Dự án...” đem lại. Thứ hai là xác định những thuộc tính thẩm mĩ của loại hình sử thi Việt Nam để xem xét một tác phẩm có phải là sử thi hay không?

2. Kalêvala – tác phẩm sử thi của người Phần Lan, được công bố ngày 28.2.1835, gồm 1.270.000 câu thơ, có hình thức diễn xướng đơn, đôi và đồng ca (theo Phan Đăng Nhật, Nghiên cứu sử thi ở Việt Nam, Nxb KHXH. Hà Nội. 2001, trang 411)

3. Trong cuộc nói chuyện chuyên đề ngày 16/10/2004 tại Viện Nghiên cứu Văn hóa, TS Baumann (ĐH Indian, Hoa Kỳ), đã nêu ra 6 tiêu chí đó. Ông cũng so sánh với nhiều loại hình truyện hát của người da đỏ ở Mĩ. Ông cho biết thêm, đó không chỉ là quan điểm của riêng ông mà hầu hết các học giả ở Mĩ đều quan niệm như vậy.

4. Nguyễn Xuân Đức: Phân loại truyện cổ dân gian theo quan điểm thi pháp học (trong công trình Những vấn đề thi pháp văn học dân gian. Nxb KHXH.H.2003). Trong công trình này, PGS Đức, cũng như nhiều nhà nghiên cứu thi pháp ở Việt Nam, đã đưa ra những tiêu chí để xác định một thể loại VHDG (chức năng thể loại, đặc trưng thi pháp...)

5. Phan Đăng Nhật: Nghiên cứu sử thi... đd, trang 407

6. Vũ Anh Tuấn (giới thiệu): Uđai – Ujàc. Nxb KHXH.Hà Nội. 2004

7. Davletop: Sáng tác dân gian - một loại hình nghệ thuật. (Lê Sơn dịch. Thư viện Nghiên cứu văn hoá, trang 18

8. Nguyễn Việt Hùng (giới thiệu): Amã Chi Sa. Nxb KHXH.2007

9. Davlêtôp, tl đã dẫn, trang 5

10.Trong nhiều lần gặp gỡ, trao đổi với tôi, PGS. Kỳ đều nhấn mạnh đến vẻ đẹp của Đam San, mà khi biên tập ông đã dồn toàn bộ tâm sức, làm văn bản đến 7, 8 lần, kéo dài nhiều năm, với mong muốn bộc lộ được những giá trị, vẻ đẹp của tác phẩm. Văn bản Đam San mới đầy đủ chiến công của Đam San đánh 7 tù trưởng.

11. Võ Quang Trọng (giới thiệu): Giông Giơ mồ côi từ nhỏ. Nxb KHXH.H.2005

12. Võ Quang Trọng, tl đã dẫn, trang

13. Võ Quang Trọng tl đã dẫn, trang

14. Nhiều tác giả: Sử thi Tây Nguyên. NXB KHXH.H1998

15. Đỗ Hồng Kỳ: Sử thi thần thoại Mơ Nông. Nxb Văn hoá dân tộc. H. 1997, trang 9

16. Vũ Anh Tuấn, tl đã dẫn, trang 20

17. Ngày 10 và 11/3/2007, trên VTV1, có phát chương trình "Lung linh di sản Raglai" gồm 2 tập, mỗi tập có dung lượng 30 phút. Trong đó, tập 1 giới thiệu về Hát kể và sử thi, với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu địa phương về văn hóa Raglai

18. GS.TS. Ngô Đức Thịnh đến nói chuyện tại khoa Ngữ Văn – ĐHSP Hà Nội, ngày  tháng năm về những phát hiện sử thi gần đây. Ông nhấn mạnh đặc biệt đến thành công của dự án là sưu tầm trực tiếp từ nghệ nhân hát kể các tác phẩm và việc đưa tác phẩm trở lại đời sống cộng đồng.

19. Davlêtôp, tl đã dẫn, trang 4

20. A Lưu hát  kể, người phiên âm và dịch là Y Tưr, Y Kiưch, Võ Quang Trọng sưu tầm: Giông giao tranh với hạ nguồn cứu dân làng. Nxb KHXH. Hà Nội 2006

21. Davlêtôp, tl đã dẫn, trang 19

22. Trong dịp sơ kết 3 năm dự án “Điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản kho tàng sử thi Tây Nguyên” tại Buôn Ma Thuột, TS. Đỗ Hồng Kỳ đã nói với tôi điều tâm đắc này. Ông vô cùng bất ngờ trước vẻ đẹp của bản Đam San, đoạn Đam San khóc vợ kết tinh những giá trị đẹp đẽ nhất của người Ê Đê về ngôn ngữ, nội dung tình cảm...

23. Ngày 29.6.2007, ở Thư viện Viện NCVH, PGS. Kỳ nói với tôi: Sử thi chúng ta sưu tầm được nhiều những đóng góp về lí luận thì còn hạn chế. Một trong những đóng góp mới và quan trọng là việc GS Nguyễn Xuân Kính đưa ra khái niệm “công thức kể tả”. Khái niệm đó rất phù hợp với loại hình sử thi ở Việt Nam

24. Điểu Klung hát kể, Điểu Kâu dịch: Bắt con lươn ở suối Dak Huch. Nxb KHXH.2005

Post by: Vu Nguyen HNUE
09-10-2020