Nghiên cứu khoa học

ĐỊNH HƯỚNG NỘI DUNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG TỰ NHẬN THỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG DẠY HỌC ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TỰ SỰ


21-10-2021
Trong xã hội hiện đại, giáo dục kĩ năng tự nhận thức (KNTNT) cho học sinh (HS) là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, cho đến nay, mới có một số công trình nghiên bước đầu đi vào nghiên cứu vấn đề này, đặc biệt là việc giáo dục KNTNT cho HS trung học cơ sở (THCS) trong dạy học đọc hiểu văn bản tự sự vẫn là một khoảng trống. Vì vậy, để góp phần nâng cao hiệu quả dạy - học văn bản tự sự ở THCS, bài viết đã nghiên cứu đề xuất các định hướng nội dung giáo dục kĩ năng tự nhận thức cho HS trong dạy học đọc hiểu văn bản tự sự, gồm: Hướng dẫn HS tự nhận thức về các giá trị sống có trong văn bản tự sự; Hướng dẫn HS tự nhận thức về những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân thông qua văn bản tự sự; Học sinh trải nghiệm các hành vi ứng xử dựa trên nền tảng giá trị sau khi đọc hiểu văn bản tự sự.

Nguyễn Chính Thành

Trường THCS Lương Thế Vinh, quận 12, Tp. Hồ Chí Minh

 

  1. Mở đầu

Trong xã hội hiện đại, kĩ năng tự nhận thức (KNTNT) là một trong những kĩ năng cơ bản mà con người cần phải có nên đã nhận được sự quan tâm ngày càng nhiều của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Tuy nhiên, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, những công trình đó chưa được dịch và xuất bản nhiều ở Việt Nam, ngoại trừ một số công trình tiêu biểu như: Trí tuệ xúc cảm (Emotional Intelligence-1995), Trí tuệ xúc cảm ứng dụng trong công việc (Working With Emotional Intelligence-1998), và Trí tuệ xã hội (Social Intelligence-2006) của Daniel Goleman được NXB Tri thức, NXB Lao động - Xã hội xuất bản năm 2005, 2007 và 2008, Thông minh cảm xúc thế kỉ 21 của Travis Bradberry & Jean Greaves, NXB Phụ nữ và TGM Books xuất bản năm 2014, ...Với một quan niệm mới và cách tiếp cận mới, Daniel Goleman đã phần nào nghiên cứu về KNTNT qua việc mô thức hoá cơ cấu của trí tuệ xúc cảm thành năm năng lực cơ bản bao gồm: 1) tự nhận thức, 2) tự điều chỉnh, 3) động cơ thúc đẩy, 4) sự thấu cảm, 5) các kĩ năng xã hội. Cuốn Thông minh cảm xúc thế kỉ 21, tác giả Travis Bradberry & Jean Greaves đã làm rõ khái niệm, những biểu hiện của bốn kĩ năng tạo thành trí tuệ cảm xúc là tự nhận thức, làm chủ bản thân, nhận thức xã hội, làm chủ mối quan hệ. Hơn nữa, trong cuốn sách này, hai tác giả còn đi sâu phân tích 15 phương pháp để nâng cao các kĩ năng trên.

Ở trong nước, vấn đề nghiên cứu phát triển KNS và KN TNT qua dạy học Văn và dạy học đọc hiểu văn bản tự sự ở nhà trường phổ thông tuy chưa có nhiều thành tựu nhưng bước đầu cũng đã có một số công trình, bài viết đề cập đến như: cuốn Giáo dục kĩ năng sống qua môn Ngữ văn ở trường Trung học cơ sở của Bộ Giáo dục và Đào tạo, luận văn Giáo dục kĩ năng tự nhận thức cho HS lớp 12 qua dạy đọc hiểu các văn bản văn chương của Nguyễn Thị Lê, bài Kĩ năng tự nhận thức của học sinh trung học phổ thông của ThS. Đặng Thị Minh Hiền trên Tạp chí Khoa học Giáo dục,... Đây là một số tài liệu quan trọng định hướng cho giáo viên thực hiện giáo dục KNS nói chung và KNTNT nói riêng cho học sinh qua dạy văn. Tuy nhiên, trong các tài liệu này, việc lựa chọn, xác định nội dung giáo dục KNS nói chung, KNTNT nói riêng từ việc dạy học đọc hiểu văn bản tự sự vẫn còn rất phiến diện và chung chung.
Vận dụng những thành tựu từ các công trình nghiên cứu trên cũng như thực tế dạy học Văn ở nhà trường phổ thông, bài viết đi sâu phân tích một số định hướng về cách lựa chọn nội dung giáo dục KNTNT cho HS THCS trong dạy đọc hiểu VBTS, qua đó góp phần giúp GV thuận lợi hơn trong quá trình hình thành và phát triển kĩ năng này cho HS.
2.    Nội dung nghiên cứu
2.1.    Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.    Khái niệm kĩ năng
Kĩ năng là một thuật ngữ phổ biến, hiện có rất nhiều cách quan niệm và phát biểu khác nhau về kĩ năng.
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: “Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến thức đã thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó áp dụng vào thực tế” [5, tr. 567].
Tác giả Huỳnh Văn Sơn cho rằng: “Kĩ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép” [8, tr. 6].
Như vậy, trong tiếng Việt, hiện khái niệm kĩ năng đang được hiểu và sử dụng theo hai cấp độ. Theo nghĩa hẹp, kĩ năng là những thao tác, cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong môi trường quen thuộc. Theo nghĩa rộng, kỹ năng bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm,... giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi. Theo nghĩa này, khái niệm kĩ năng có nội hàm tiệm cận với khái niệm năng lực. Ở bài viết này, chúng tôi sử dụng khái niệm “kĩ năng” trong “KNTNT” với hàm nghĩa rộng nêu trên.
2.1.2.    Khái niệm KNTNT
Tự nhận thức (Self-awareness) là một trong những KNS căn bản của con người, là khởi điểm cho việc làm chủ bản thân và tạo ra những gì ta muốn, là nền tảng để con người thực hiện các kĩ năng khác một cách thuận lợi và hiệu quả hơn.
Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về tự nhận thức. Theo Daniel Goleman: “Tự nhận thức là khả năng nhận biết các tình trạng, sở thích, nguồn lực của bản thân và trực giác” [3, tr. 53].
Theo Higgs và Dulewicz, tự nhận thức là “Khả năng tự thấu hiểu cảm xúc của một người và khả năng nhận ra cũng như kiểm soát những cảm xúc này theo cách mà người đó cảm nhận và có thể kiểm soát được” [1, tr. 52].
Theo tác giả Trần Thanh Bình, “KNTNT là năng lực cá nhân vận dụng có hiệu quả những tri thức, những kinh nghiệm thành hành động để nhận biết đúng đắn mình là ai, mình có thể làm được gì, điểm mạnh, điểm yếu của mình là gì, mình đang sống trong hoàn cảnh nào...” [2, tr.10].
Trên cơ sở ý kiến của các nhà khoa học, ở đây chúng tôi quan niệm: Tự nhận thức là khả năng nhận biết được cảm xúc, những điểm mạnh, điểm yếu, giá trị và năng lực của bản thân để có thể xác định mục tiêu, điều chỉnh cảm xúc, hành vi của mình một cách phù hợp nhằm phát triển bản thân và góp phần phát triển cộng đồng, xã hội.
2.2.    Vai trò của của giáo dục kĩ năng tự nhận thức và thực trạng kĩ năng tự nhận thức của học sinh trung học cơ sở hiện nay
Tự nhận thức là một KNS cơ bản và có vai trò vô cùng quan trọng đối với HS. Tự nhận thức là một trong những cơ sở, nền tảng chắc chắn để con người làm chủ cuộc sống của chính  
mình. Trên cơ sở tự hiểu rõ về mình, HS sẽ xác định được những mục tiêu ngắn hạn cũng như mục đích của cuộc đời mình một cách cụ thể và sát hợp. Biết mình mong muốn điều gì sẽ giúp HS xác định rõ những gì mình muốn - tức mục tiêu mình muốn hướng tới. Tự nhận thức sẽ hướng HS đến những gì họ cần và dẫn dắt họ đi đúng hướng để đạt được mục tiêu đó. Vì kiểm soát được cảm xúc và khả năng của bản thân nên một người có khả năng tự nhận thức sẽ biết khi nào cần phải tập trung suy nghĩ và bằng cách nào để đạt được mục tiêu đó. Không chỉ vậy, kĩ năng tự nhận thức còn giúp HS biết phân biệt, đồng cảm với những điều tốt đẹp và phản đối, ngăn chặn những điều xấu. Hơn nữa khi HS có khả năng tự nhận thức, các em sẽ nhận thức rõ hơn về cá tính, điểm mạnh, điểm yếu của mình, từ đó điều chỉnh suy nghĩ, hành vi ứng xử cho phù hợp với hoàn cảnh và mở rộng tâm hồn, tình cảm của mình để yêu thương, thấu cảm và chia sẻ với những người khác.
Mặc dù có vai trò quan trong như vậy song qua kết quả khảo sát 441 HS vào tháng 8 năm 2018 của ba trường THCS ở thành phố Hồ Chí Minh (trường THCS Lương Thê Vinh - quận 12; trường THCS Nguyễn Hiền - quận 12; trường THCS Hậu Giang - quận 11) cho thấy HS THCS còn thiếu hụt KNTNT trong sinh hoạt, học tập và giao tiếp với các thành viên trong gia đình, bạn bè, thầy cô và xã hội. HS THCS nói riêng rất thiếu tự tin trong các vấn đề như: ngại đưa ra ý kiến riêng, nhất là những ý kiến trái chiều với người đối thoại; thiếu quyết đoán khi đưa ra quyết định trước những tình huống mới;... Không chỉ vậy, vì nhiều lí do, các em cũng có nhiều hành động, việc làm, cử chỉ, lời nói thể hiện sự vô cảm với những gì đang diễn ra trong học tập và cuộc sống của mình như: có nhiều em vẫn tham gia châm chọc hoàn cảnh khó khăn, sự khuyết tật ở bạn bè; không sẵn sàng nhường chỗ ngồi cho người già, phụ nữ mang thai khi đi xe buýt; ít khi đặt mình vào vị trí của bạn bè, của thầy cô, của cha mẹ để hiểu vì sao bạn bè, thầy cô, cha mẹ lại xử sự như vậy,... Hơn nữa, do tuổi còn nhỏ, thiếu kinh nghiệm, thiếu hiểu biết và sự từng trải nên HS THCS rất dễ mắc sai lầm, dễ bị lôi kéo, dụ dỗ vào các tệ nạn xã hội. Trong thực tế, một số em bỏ học đi lang thang, “bụi đời”; một số tham gia bán hàng cấm như: shisha, heroin, hàng đá,. cho chính bạn của mình; một số gia nhập các băng đảng giang hồ ở địa phương đi dọa nạt, trấn lột chính các bạn HS trong trường; một số HS nữ bị rủ rê, lừa gạt bỏ nhà đi theo các nhóm thanh niên lêu lổng,., Báo cáo về công tác phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật, HIV/AIDS, ma túy, mại dâm, tệ nạn xã hội ngành giáo dục năm 2018 cho biết: “Năm học 2017-2018, có trên 2.000 vụ học sinh tham gia đánh nhau và vi phạm pháp luật liên quan đến 5.000 đối tượng, chiếm khoảng 0,024% học sinh phổ thông. Khảo sát mới đây của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao công bố trên các phương tiện truyền thông cũng khiến nhiều người giật mình: trung bình mỗi năm có 10.000 vụ phạm pháp hình sự do người vị thành niên thực hiện. Đáng ngại hơn, tỷ lệ người vi phạm pháp luật dưới 18 tuổi chiếm 8% số vụ vi phạm. Nếu như trước kia, trẻ vị thành niên thường chỉ liên quan đến các hành vi trộm cắp, gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích, thì gần đây, hành vi tội phạm ở độ tuổi này nguy hiểm hơn như giết người cướp của, hiếp dâm, mua bán ma túy...” [9]. Đây là những con số báo động đối với toàn xã hội.
2.3.    Một số định hướng về nội dung giáo dục kĩ năng tự nhận thức cho học sinh trong dạy học đọc hiểu văn bản tự sự ở trung học cơ sở
2.3.1. Khả năng của văn bản tự sự trong việc phát triển KNTNT cho học sinh
Các văn bản tự sự chiếm một tỷ lệ lớn trong chương trình SGK Ngữ văn THCS với các nhóm đề tài rất phong phú, đa dạng. Không chỉ đặc sắc về hình thức nghệ thuật, các văn bản tự sự này còn hàm chứa nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội, gợi ra nhiều chủ đề gần gũi với cuộc sống, suy nghĩ, nhu cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mĩ của cá nhân học sinh như: tình bạn, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình, lòng nhân hậu, tính trung thực, tình trạng cha mẹ li hôn, trẻ em thất học, khả năng vượt khó, bản lĩnh đối mặt với những thách thức và những vấn đề gai góc trong cuộc sống... Đọc hiểu các văn bản này là cơ hội để học sinh nếm trải cảm xúc của bản 
thân về các vấn đề thiết thân kể trên, từ đó xác định được giá trị của bản thân, tự đánh giá được khả năng giao tiếp, khả năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo và khả năng ứng phó trước những tình huống tương tự có thể nảy sinh trong cuộc sống. Như khi đọc truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng, hình ảnh con ếch trong giếng huênh hoang, tự cho mình là chúa tể, coi thường các con vật bé nhỏ như cua, nhái, ốc, lúc nào cúng kêu ồm ộp và cuối cùng bị chết vì trâu giẫm bẹp đã phê phán tính huênh hoang, chủ quan của con người. Và cũng qua đây các em học được cách ứng xử khiêm tốn qua những hành động kiêu căng, ngạo mạn cũng như hậu quả nghiêm trọng mà chú ếch phải nhận.
Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề tích hợp trong dạy học, trong đó có giáo dục KNTNT cho HS trong môn Ngữ văn đã được toàn ngành yêu cầu thực hiện trong nhiều năm nay nhưng vẫn chưa được GV chú ý và quan tâm đúng mức. Trong các giờ dạy đọc hiểu văn bản tự sự, GV chưa chú ý giáo dục KNTNT thông qua những hình thức và hệ thống câu hỏi, bài tập có khả năng giáo dục kĩ năng này cho HS. Các hình thức và hệ thống câu hỏi, bài tập chủ yếu khai thác giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản. Thực trang này là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như: nghành chưa có những định hướng, chỉ dẫn cụ thể, rõ ràng về mặt lí thuyết trong giáo dục KNS nói chung và KNTNT nói riêng, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này, các biện pháp, hình thức dạy học chưa tập trung vào phát huy năng lực của HS, cơ sở hạ tầng trường lớp còn thiếu đồng bộ,... Nhưng có lẽ một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến điều này là GVchưa biết lựa chọn nội dung phù hợp trong văn bản tự sự để phát triển KNTNT cho HS.
2.3.2.    Một số định hướng
2.3.2.1. Hướng dẫn HS tự nhận thức về các giá trị sống có trong văn bản tự sự
Giá trị sống (hay giá trị cuộc sống) là những điều chúng ta cho là quý giá, quan trọng, có ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người. Giá trị sống là hoa tiêu, là động lực để con người nỗ lực vươn tới. Theo Diane Tillman, “12 giá trị căn bản của cá nhân và xã hội gồm: Hợp tác, Tự do, Hạnh phúc, Trung thực, Khiêm tốn, Yêu thương, Hòa bình, Tôn trọng, Trách nhiệm, Giản dị, Khoan dung và Đoàn kết.” [4, tr.7].
Văn bản văn chương nói chung, văn bản tự sự nói riêng là tấm gương phản ánh đời sống xã hội; là lời nhắn nhủ, gửi gắm của tác giả về nhân sinh quan, thế giới quan, về cách xử thế, về triết lí sống ở đời; là kho tàng về các giá trị sống ẩn sau lớp ngôn từ, hình ảnh, biểu tượng, kết cấu... Đã từng có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học thể hiện điều này ngay trong các tác phẩm của mình. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh viết: “Nguồn gốc cốt yếu của văn chương là lòng thương người và rộng ra thương cả muôn vật muôn loài” [6, tr.60], “Văn chương sẽ là hình dung của sự sống muôn hình vạn trạng. Chẳng những thế, văn chương còn sáng tạo ra sự sống” [6, tr.60]; Nguyễn Đình Thi thì cho rằng: “Chỗ đứng chính của văn nghệ là ở tình yêu ghét, niềm vui buồn, ý đẹp xấu trong đời sống thiên nhiên và đời sống xã hội.” [7, tr.14]. Trong bài Than đạo, Nguyễn Đình Chiểu cũng từng viết:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Nhiều văn bản tự sự ở THCS là những câu chuyện xúc động về tình yêu thương, lòng nhân hậu, vị tha. Đây là những những đức tính, những giá trị phổ quát của con người. Những giá trị sống đó được kết tinh, hội tụ và thể hiện phong phú qua văn bản tự sự với các cung bậc cảm xúc khác nhau. Đó là tình mẫu tử thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt trong Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Những dòng tâm trạng của cậu bé Hồng có thể giúp bạn đọc học sinh nhìn một cách sâu xa hơn, thấu hiểu hơn về tình mẹ, lòng mẹ, thân phận của những người mẹ. Đó là tình cảm gia đình trong Tức nước vỡ bờ của Ngô Tất Tố. Bão táp vây quanh gia đình khốn khổ của chị Dậu giúp HS có thể nhận thức được, gia đình không chỉ là mái ấm yêu thương mà còn là nơi sẻ chia, nơi cần được bảo vệ và khi cần các thành viên có thể phải chịu thiệt thòi, thậm chí hi 6  
sinh tính mạng để bảo vệ nó. Đó là tình cảm anh em trong Cuộc chia tay của những con búp bê của nhà văn Khánh Hoài. Cuộc chia tay đẫm nước mắt giữa hai anh em Thành và Thuỷ giúp HS nhận biết rõ hơn tình cảm anh em gắn bó máu thịt, từ đó mà có ý thức bảo vệ, vun đắp tình cảm ruột thịt đó. Đó là tình yêu thương giữa con người với con người trong Lão Hạc của Nam Cao. Đọc hiểu văn bản này, HS có thể nhận ra và tin tưởng rằng, không phải chỉ có người thân mới là chỗ dựa cho ta trong những lúc sóng gió của cuộc đời mà những người xung quanh ta cũng đầy lòng trắc ẩn, ta có thể cậy nhờ, tìm nguồn động viên, an ủi và sự giúp đỡ với điều kiện ta luôn nỗ lực cố gắng, chân thành và cũng đầy lòng trắc ẩn. Chiếc lá cuối cùng của O. Hen-ri cũng góp thêm một tiếng nói khẳng định về tình người bao la trong cõi đời này.
Đối lập với tình yêu thương là tội ác. Các văn bản tự sự ở THCS, ngoài việc ca ngợi tình yêu thương cũng đồng thời phê phán, lên án gay gắt những việc làm, hành động, con người đã chà đạp lên những giá trị phổ quát của nhân loại, thờ ơ với nỗi đau khổ, bất hạnh của con người. Đó là nhân vật bà cô trong Trong lòng mẹ. Những lời lẽ cay độc, lạnh lùng, vô cảm của người cô không chỉ là nhát dao xuyên vào trái tim non nớt khát khao tình mẹ của đứa cháu côi cút mà còn gieo rắc vào đầu đứa trẻ nỗi hoài nghi, sự ruồng rẫy người mẹ đang phải tha hương cầu thực. Nỗi đau của một đứa trẻ bị hành hạ về mặt tinh thần qua lời văn trĩu nặng của Nguyên Hồng cho HS thấy rằng, chúng ta cần cảnh giác không phải chỉ để tránh tổn thương về mặt thể xác mà còn phải tránh tổn thương, sứt mẻ về mặt tâm hồn, rằng phải từng bước thấu hiểu lẽ đời, lối đời để trưởng thành và bình an.
Văn bản Sống chết mặc bay là một bức tranh châm biếm sâu cay về những tên quan phụ mẫu - cha mẹ của dân nhưng trong lúc dân đang trằn mình giữ đê chống lũ, sinh mạng muôn dân như trứng để đầu gậy thì quan phụ mẫu vẫn ung dung ngồi đánh tổ tôm. Thảm cảnh đó mở rộng tầm nhìn cho HS về bộ mặt của tầng lớp thống trị một thời, từ đó biết liên hệ với bối cảnh xã hội hiện nay. Cô bé bán diêm của nhà văn An-đéc-xen không chỉ nhẹ nhàng đi vào lòng người bằng hình ảnh cô bé bán diêm mồ côi nghèo khổ nhưng ấm áp tình yêu thương bà mà còn là lời tố cáo sâu sắc sự vô cảm của con người, sự vô cảm đã giết chết những đứa trẻ khốn khổ.
Đoàn kết cũng là một giá trị sống cao đẹp của nhân loại. Đọc hiểu văn bản Thánh Gióng, qua chi tiết người dân trong làng góp gạo nuôi chú bé Gióng, giáo viên cần giúp HS nhận thức được truyền thống yêu nước và sức mạnh đoàn kết của dân tộc ta, rằng chính lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết đó đã nuôi dưỡng, hun đúc lên sức mạnh thần kì ở Thánh Gióng và giúp chúng ta đánh bại mọi kẻ thù xâm lược sau này.
Sống có trách nhiệm cũng là một giá trị mà các thế hệ trẻ cần thấu hiểu. Đọc hiểu văn bản Lặng lẽ Sa Pa, giáo viên cần giúp HS nhận thức được anh thanh niên trong truyện chính là một hình mẫu về tuổi trẻ sống có lí tưởng và trách nhiệm. Dù chịu nhiều vất vả, thiếu thốn vật chất, lại phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt nhưng với lòng hăng say và tinh thần trách nhiệm, anh vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đọc hiểu văn bản Những ngôi sao xa xôi, HS không khó khăn khi nhận ra ba cô gái thanh niên xung phong ngoài sự dũng cảm, hồn nhiên, yêu đời, không ngại khó khăn cũng đã thể hiện rất rõ tinh thần trách nhiệm của mình. Sự gan dạ, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh của ba cô gái gợi cho HS những suy nghĩ về tinh thần trách nhiệm đối với quê hương, đất nước; trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội.
Khoan dung là một phẩm chất đáng trân trọng của con người. Khoan dung là biết tha thứ, bỏ qua cho những sai lầm thiếu sót của người khác, biết chấp nhận những điểm yếu của người khác, biết cưu mang, giúp họ đứng lên sau vấp ngã. Khoan dung còn là tự tha thứ cho chính mình để làm lại và đứng dậy. Trong văn bản Thạch Sanh, tội ác của Lý Thông ngày một gia tăng và tàn ác nhưng Thạch Sanh luôn bao dung, độ lượng; khoan dung cả với kẻ thù xâm lược. Đọc hiểu văn bản này, giáo viên có thể giúp HS nhận thức được quy luật nhân quả ở đời: những chàng Thạch Sanh thật thà, tốt bụng, nhân hậu, vị tha, dũng cảm, tài năng xứng đáng có được tình yêu, hạnh phúc và sự thành công. 
Như vậy, văn bản tự sự là kho tàng chứa đựng những triết lí nhân sinh hết sức sâu sắc được đúc rút từ thực tiễn cuộc sống, được thể hiện qua những câu chuyện thú vị, xúc động và lôi cuốn. Trong giai đoạn hiện nay, khi nhiều giá trị truyền thống ngày càng bị mai một, những hiện tượng xã hội tiêu cực ngày càng có tác động lớn đến suy nghĩ, lối sống, hành vi, cách cư xử của con người, đặc biệt là các em học sinh cấp THCS thì việc sử dụng những câu chuyện thú vị trong văn bản tự sự để hình thành nhân sinh quan tích cực cho HS là một biện pháp hiệu quả. Bởi vì, thông qua các câu chuyện hấp dẫn, những triết lý nhân sinh dễ thấm thía, lay động HS hơn là những bài thuyết giảng lí luận khô khan, trừu tượng. Thông qua đọc hiểu và dạy đọc hiểu văn bản tự sự, HS có thể nhận thức, lĩnh hội được các giá trị sống sâu sắc mà cha ông ta đã gửi gắm qua nhân vật, sự việc tiêu biểu; biết phân biệt đúng - sai, hay - dở, cao cả - thấp hèn; biết yêu - ghét đúng người, đúng việc. Vì vậy, để phát triển KN TNT cho HS, trước hết cần chú trọng hướng dẫn HS nhận biết và rút ra được các giá trị sống có trong văn bản tự sự. Đây là cũng là bước đầu tiên, là cơ sở, nền tảng để HS có thể thực hiện các bước tiếp theo là tự nhận thức về mình và tự điều chỉnh, thực hiện các hành vi chuẩn mực trong cuộc sống.

 

Xem thêm bài viết: Educational Sciences, 2019, Volume 64, Issue 9, pp. 3-12

Post by: admin
21-10-2021