Bài báo này trình bày khái niệm năng lực từ vựng tiếng Việt, từ đó xác định quy trình thiết kế thang đo năng lực từ vựng tiếng Việt của học sinh người dân tộc thiểu số. Việc xác định được chuẩn đánh giá năng lực từ vựng sẽ giúp cho giáo viên thuận lợi hơn khi truyền thụ kiến thức cho học sinh và có những phương pháp dạy học phù hợp để có thể phát triển năng lực người học.
1. Mở đầu
Những năm gần đây, việc giảng dạy tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai cho học sinh (HS) dân tộc thiểu số (DTTS) ngày càng được quan tâm do nhu cầu thực tế của cộng đồng người DTTS trong việc nắm vững tiếng Việt ngày càng tăng. Với HS DTTS ở Việt Nam, tiếng Việt là công cụ để giao tiếp và tư duy trong nhà trường đồng thời trang bị cho HS công cụ để giao tiếp, tiếp nhận và diễn đạt mọi kiến thức của các môn học khác trong nhà trường. Thực tế hiện nay, tiếng Việt trong các trường có HS DTTS được ứng xử như là bản ngữ; việc đánh giá chất lượng tiếng Việt ở các trường học chỉ có học sinh Kinh, chỉ có học sinh DTTS, vừa có HS Kinh và HS DTTS không có sự phân biệt nhau. Bên cạnh đó, cả các công trình nghiên cứu về năng lực giao tiếp tiếng Việt lẫn chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (dự thảo) hiện nay chỉ mới tập trung hình thành và phát triển năng lực giao tiếp và năng lực ngôn ngữ thông qua các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói và chủ yếu tập trung ở đối tượng HS học tiếng mẹ đẻ chứ chưa chú trọng quan tâm đến một bộ phận khác cũng đang cần rất nhiều sự quan tâm đó là đối tượng HS DTTS - những người học tiếng Việt như là ngôn ngữ thứ 2. Do đó, việc nghiên cứu về năng lực giao tiếp nói chung và năng lực từ vựng dành cho đối tượng HS DTTS là điều hết sức cần thiết. Khái niệm về khả năng sử dụng từ ngữ/ năng lực từ vựng phần nào đã được đề cập đến trong các công trình Dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông [1], Bộ tiêu chuẩn đánh giá năng lực tiếng Việt của học viên quốc tế [4], Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học 1 [5], Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học [6]; và được cụ thể thành một số tiêu chí trong các văn bản “Thông tư số 17/2005/TT-BGDĐT về việc “Ban hành khung năng lực tiếng Việt dùng cho người nước ngoài” (ngày 01 tháng 09 năm 2015), Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học (2009) [2], Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (dự thảo ngày 18.01.2018) [3],... Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào xây dựng một thang đo cụ thể với các mức độ chi tiết để đánh giá năng lực từ vựng tiếng Việt dành cho đối tượng HS DTTS. Từ những lí do trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Xây dựng thang đo đánh giá năng lực từ vựng tiếng Việt cho học sinh người dân tộc thiểu số” với mong muốn xây dựng một thang đo năng lực từ vựng với các tiêu chí có giá trị và từ đó xây dựng các công cụ đo năng lực từ vựng trong dạy học Tiếng Việt cho HS DTTS một cách hợp lí; giúp giáo viên có thể đánh giá chính xác và dễ dàng năng lực từ vựng của HS DTTS.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Năng lực tiếng Việt và năng lực từ vựng của học sinh dân tộc thiểu số
2.1.1. Các yếu tố cấu thành năng lực tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số
Như đã biết, mức độ thành thạo tiếng Việt được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, do đó để đánh giá được năng lực tiếng Việt cho HS DTTS, cần xây dựng bộ tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá toàn diện năng lực của HS. Căn cứ “Thông tư số 17/2005/TT-BGDĐT về việc “Ban hành khung năng lực tiếng Việt dùng cho người nước ngoài” (ngày 01 tháng 09 năm 2015); “Khung tham chiếu trình độ ngoại ngữ chung châu Âu (Common European Framework of Reference-CEFR)”; căn cứ Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học (2009) [2], Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (dự thảo ngày 18.01.2018) [3], căn cứ vào các thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo như Thông tư 36, 30 và 22 về đánh giá năng lực HS; chúng tôi tiến hành xây dựng và phát triển các thành tố cấu thành năng lực tiếng Việt cho HS DTTS. Theo chúng tôi, các năng lực giao tiếp tiếng Việt dành cho HS DTTS được thể hiện qua các tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn 1. Năng lực ngôn ngữ
- Tiêu chuẩn 2. Năng lực tạo lập văn bản (nghe - đọc)
- Tiêu chuẩn 3. Năng lực tiếp nhận văn bản (nói - viết)
- Tiêu chuẩn 4. Năng lực về chiến lược giao tiếp bằng tiếng Việt (nói - viết).
2.1.2. Năng lực từ vựng của học sinh dân tộc thiểu số
Để nắm và sử dụng được một ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ hay ngôn ngữ thứ 2) thì người sử dụng ngôn ngữ đó phải có vốn từ ngữ nhất định, nắm được cách sử dụng các từ ngữ đó đúng với các quy tắc ngữ pháp và vận dụng vốn từ cũng như các quy tắc ngữ pháp đó linh hoạt và phù hợp với mỗi hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Năng lực sử dụng từ ngữ được hình thành trong quá trình người học thụ đắc từ vựng của ngôn ngữ đó.
Năng lực từ vựng là một trong năm tiêu chí để đánh giá năng lực ngôn ngữ. Hiện nay chúng tôi chưa tiếp cận được công trình nghiên cứu nào ở Việt Nam có một định nghĩa cụ thể rõ ràng về năng lực từ vựng. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu về việc dạy học từ và câu tiếng Việt hiện nay đều đưa ra những gợi dẫn để nhận diện được năng lực từ vựng.
Trong Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học, PGS.TS Nguyễn Quang Ninh đã khẳng định: “Chúng ta nói một người nào đó nắm được ngôn ngữ là chúng ta khẳng định người đó có một số lượng từ nhất định và biết sử dụng vốn từ đó đúng với các quy tắc ngữ pháp, với nghi thức lời nói trong hoạt động giao tiếp của mình [6,tr.81]. Qua đó, tác giả cũng khẳng định “việc dạy từ ngữ và ngữ pháp ở tiểu học có một tầm quan trọng rất lớn trong việc hình thành cho các em năng lực sử dụng từ và sử dụng câu (các quy tắc ngữ pháp)” [6, tr.81].
Tác giả Lê Phương Nga trong Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học II cũng khẳng định bên cạnh việc cung cấp cho học sinh vốn từ và những kiến thức sơ giản về câu thì việc dạy từ và câu ở tiểu học hiện nay còn giúp học sinh “có kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thể hiện tư tưởng tình cảm của mình, đồng thời có khả năng hiểu và sử dụng các kiểu câu của người khác nói ra trong hoàn cảnh giao tiếp nhất định” [5, tr.56].
Trong Bộ tiêu chuẩn đánh giá năng lực tiếng Việt của học viên quốc tế, các tác giả Nguyễn Chí Hoà, Vũ Đức Nghiệu đã nhận định năng lực ngữ pháp là một trong những hợp phần của năng lực giao tiếp: “năng lực ngôn ngữ là kiến thức và khả năng sử dụng vốn ngôn ngữ để tạo thành các thông báo. Các tiểu thành tố hợp thành năng lực ngôn ngữ là năng lực từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm, âm vị học, chữ viết và năng lực phát âm chuẩn” [4, tr.49].
Để đảm bảo tính khoa học, trong bài viết này, chúng tôi sử dụng định nghĩa năng lực từ vựng (lexical competence) trong công trình “Khung tham chiếu chung cho ngôn ngữ Châu Âu: học tập, giảng dạy, đánh giá (The common European Framework of Reference for Languages: Learning, Teaching, Assessement)” [7]. Theo đó, năng lực từ vựng được định nghĩa là kiến thức và khả năng sử dụng từ vựng của một ngôn ngữ, bao gồm các yếu tố từ vựng và các yếu tố ngữ pháp [7, tr.110]. Các yếu tố của từ vựng được các tác giả kết luận bao gồm: các biểu thức cố định (thành ngữ, tục ngữ,...), cụm từ cố định và không cố định, từ loại.
Có thể thấy, do căn cứ vào hướng tiếp cận khác nhau và do phạm vi đối tượng nghiên cứu khác nhau (dạy học ngôn ngữ với tư cách tiếng mẹ đẻ hay với tư cách là ngoại ngữ hay là ngôn ngữ thứ 2) các nhà nghiên cứu về phương pháp dạy học tiếng đã đưa ra những góc nhìn khác nhau về vị trí, vai trò của năng lực sử dụng từ ngữ.
Từ những gợi dẫn trên, để thuận tiện và nhất quán cho quá trình nghiên cứu về sau, chúng tôi định nghĩa năng lực từ vựng là khả năng người học nắm vững kiến thức từ vựng của một ngôn ngữ và sử dụng thành thạo những kiến thức đó để thực hiện giao tiếp trong những hoàn cảnh nhất định.