Nghiên cứu khoa học

SỰ TIẾP NHẬN DI SẢN TRIẾT HỌC VÀ MĨ HỌC CỦA M.M. BAKHTIN Ở VIỆT NAM


15-10-2020
Tác giả: Lã Nguyên

Mikhail Mikhailovits Bakhtin (1895 – 1975) là một trong những nhà triết học, mĩ học, văn hóa học và nghiên cứu văn học lỗi lạc nhất của thế kỉ XX. Từ cuối những năm sáu mươi của thế kỉ trước, ông đã được phương Tây biết tới và đánh giá cao; sáng tác, tư tưởng, cuộc đời và nhân cách của ông nhanh chóng trở thành đối tượng quan tâm nghiên cứu, kiến giải ngày càng sâu rộng trên trường quốc tế, đến mức hiện nay hoàn toàn có cơ sở để nói về một bộ môn “Bakhtin học” trên qui mô toàn cầu, với nhiều trung tâm ở nhiều nước phát triển. Những tư tưởng thiên tài của ông ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng tới sự phát triển của khoa học nhân văn trên phạm vi toàn thế giới.

Mikhail Mikhailovits Bakhtin (1895 – 1975) là một trong những nhà triết học, mĩ học, văn hóa học và nghiên cứu văn học lỗi lạc nhất của thế kỉ XX. Từ cuối những năm sáu mươi của thế kỉ trước, ông đã được phương Tây biết tới và đánh giá cao; sáng tác, tư tưởng, cuộc đời và nhân cách của ông nhanh chóng trở thành đối tượng quan tâm nghiên cứu, kiến giải ngày càng sâu rộng trên trường quốc tế, đến mức hiện nay hoàn toàn có cơ sở để nói về một bộ môn “Bakhtin học” trên qui mô toàn cầu, với nhiều trung tâm ở nhiều nước phát triển.  Những tư tưởng thiên tài của ông ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng tới sự phát triển của khoa học nhân văn trên phạm vi toàn thế giới.

So với nhiều khu vực trên thế giới, sự tiếp nhận tư tưởng lí luận của Bakhtin diễn ra ở Việt Nam chậm hơn một bước. Có lẽ Trần Đình Sử là người đầu tiên giới thiệu M. Bakhtin với công chúng Việt Nam. Năm 1985, trên tạp chí Văn nghệ quân đội (số tháng 10), ông công bố tiểu luận M. Bakhtin và thi pháp của Dostoievski. Cùng với Trần Đình Sử, các học giả Phạm Vĩnh Cư, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Lã Nguyên, Từ Thị Loan đã có nhiều đóng góp trong việc giới thiệu, quảng bá di sản của M. Bakhtin. Họ đã bỏ nhiều công sức vào việc dịch thuật và nghiên cứu tác phẩm của ông. Nhờ những đóng góp đầy tâm huyết của họ, đến nay, 7 tiểu luận và 3 chuyện luận lớn nhất của M. Bakhtin đã đến được với độc giả Việt Nam. Có thể liệt kê như sau:

+ Các tiểu luận: 1. Tiểu thuyết như một thể loại văn học, 2. Ngôn ngữ tiểu thuyết, 3. Tiếng cười Rabelais và văn hóa trào tiếu dân gian, 4.Tiểu thuyết phức điệu của Dostoievski (4 tiểu luận này do Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu, in trong sách Lí luận và thi pháp tiểu thuyết[1]), 5. Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ, 6. Sử thi và tiểu thuyết (2 tiểu luận này do Phạm Vĩnh Cư dịch, in trong sách Lí luận, phê bình văn học thế giới thế kỉ XX[2]), 7. Vấn đề thể loại lời nói (Lã Nguyên dịch, in trong sách Lí luận văn học – Những vấn đề hiện đại[3]).

+ Các chuyên luận: 1. Những vấn đề thi pháp Dostoievski[4]2. Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và Phục hưng[5]3. Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ[6].

Ngoài ra, cần phải kể tới một loạt tiểu luận, chuyên luận của các học nước ngoài viết về di sản của M. Bakhtin đã được dịch ra tiếng Việt, ví như Lịch sử văn học như là sự sáng tác và nghiên cứu: trường hợp Bakhtin của M.L. Gasparov[7]Di Sản Bakhtin[8], Mikhil Bakhtin – Nguyên lí đối thoại của Tz. Todorov[9], hoặc Một nền thi pháp học sụp đổ của J. Kristeva[10]. Tác giả của các công trình này là những học giả lớn, có uy tín quốc tế, độc giả Việt Nam chắc chắn muốn lắng nghe ý kiến của họ. Cho nên, tư liệu và kết luận trong các công trình nghiên cứu ấy tất yếu sẽ chi phối xu hướng tiếp nhận của giới nghiên cứu, phê bình văn nghệ nước ta đối với di sản của M. Bakhtin.

Từ cuối những năm 1980 của thế kỉ trước, di sản của M. Bakhtin không chỉ được dịch ra tiếng Việt, mà còn trở thành đối tượng nghiên cứu, ứng dụng của nhiều học giả. Các bài Lời mở đầu,  Đôi lời về Bakhtin của Phạm Vĩnh Cư viết cho hai cuốn Lí luận và thi pháp tiểu thuyết và Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và Phục hưng; bài M. Bakhtin và thi pháp của Dostoievski và bài Lời giới thiệu của Trần Đình Sử viết cho cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoievski, bài Lời giới thiệu của Ngô Tự Lập – Ngô Minh Thủy viết cho cuốn Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ là những tiểu luận có giá trị, giúp người đọc hình thành những ý niệm đầu tiên về tư tưởng khoa học của M. Bakhtin. Lã Nguyên có một số công trình nghiên cứu đáng lưu ý: M. Bakhtin: Nhà triết học, nhà nghiên cứu văn học[11],  Mikhail Mikhailovich Bakhtin và tự sự học theo hướng tân tu từ học[12].

Qua những công trình dịch thuật, nghiên cứu nói trên và qua hàng trăm luận văn, luận án đã được bảo vệ ở nhiều cơ sở đào tạo trong nhiều năm qua, có thể thấy, từ di sản triết học, mĩ học và lí luận văn học của M. Bakhtin, bộ phận được tiếp nhận và ứng dụng rộng rãi nhất ở Việt Nam là thi pháp học tiểu thuyết và lí thuyết về thể loại văn học của ông.

Trần Đình Sử tổ chức dịch sang tiếng Việt cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoevski của M. Bakhtin có lẽ trước hết vì ông là chuyên gia thi pháp học. Trong bài Lời giới thiệu cho cuốn sách chúng tôi vừa nhắc tới ở trên, Trần Đình Sử cho rằng tác phẩm của Bakhtin là kết tinh tất cả những gì tinh túy nhất trong phương pháp tư duy của nhà bác học và đem ứng dụng vào việc nghiên cứu một trong những sáng tác phức tạp nhất của văn học Nga. Theo ông, có hai điểm then chốt tạo nên sự đặc sắc bao trùm trong tư duy khoa học của M. Bakhtin.

Thứ nhất: Quan niệm mới mẻ của Bakhtin về con người với tư cách là đối tượng của khoa học nhân văn. Trần Đình Sử nhấn mạnh, rằng hầu như mọi vấn đề quan trọng nhất của khoa học nhân văn đều được Bakhtin soi sáng từ quan niệm về tính tính cực của con người, con người như một chủ thể sáng tạo, có giá trị tự thân. Với ý nghĩa như thế, đối tượng của khoa học nhân văn là “phần tồn tại và biết nói”, hình thức nghệ thuật là “hình thức của chủ thể để nắm bắt thực tại”, cơ sở để phân chia các thể loại văn học là “các kiểu giao tiếp giữa người và người”, “bản chất của ý thức và ngôn từ không chỉ là phản ánh thế giới, mà còn là sự đối thoại giữa “tôi” và “người khác””.

Thứ hai: Quan niệm mới mẻ của Bakhtin về hình thức nghệ thuật. Thi pháp học nghiên cứu văn học như một nghệ thuật. Trong Những vấn đề thi pháp Dostoievski,  M. Bakhtin cũng nghiên cứu thi pháp từ “hình thức nghệ thuật”, “tư duy nghệ thuật”, khám phá “nhà nghệ sĩ Dostoievski trong sáng tác của Dostoievski”. Nhưng khác với những người đi trước và các nhà nghiên cứu cùng thời, ông xem hình thức nghệ thuật là phạm vi thể hiện tính tích cực sáng tạo của nghệ sĩ, chứ không chỉ đơn giản như là “thủ pháp”, “kĩ thuật”, hay là “cấu trúc “biểu hiện” trong ý nghĩa khách thể của nó. Với Bakhtin, hình thức chính là chức năng chủ thể của nghệ sĩ, nghiên cứu nghệ sĩ là nghiên cứu hình thức. Từ quan niệm ấy, Bakhtin phát hiện ra ở tiểu thuyết của Dostoievski cấu trúc phức điệu và hình tượng con người được miêu tả như những ý thức, những chủ thể[13].

Phần lớn di sản của M. Bakhtin được viết từ những năm 20 – 40 của thế kỷ trước. Phạm Vĩnh Cư cho rằng, cho đến nay, di sản ấy vẫn giữ được tính thời sự và sức cuốn hút mạnh mẽ nhờ ba đặc điểm sau đây. Thứ nhất: Tính cách tân. Trước tác của M. Bakhtin đặt ra cho khoa học một loạt vấn đề mới hệ trọng, cũng cấp những phương pháp luận, cách tiếp cận mới, đầy hiệu năng, kích thích tinh thần tìm tòi, sáng tạo, nhận thức và nhận thức lại không ngừng trong khoa học. Thứ hai: Sự kết hợp nhuần nhuyễn tư duy khoa học hiện đại luôn hướng về cái mới với “cốt cách nho nhã của một kẻ sĩ gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa nhân văn cổ điển”. Theo Phạm Vĩnh Cư, tinh thần nhân văn chủ nghĩa toát ra từ toàn bộ tác phẩm và từng trang viết của Bakhtin, tạo ra koangr cách rõ rệt giữa ông với các học giả, nghệ sĩ “tiên phong chủ nghĩa”. Một mặt, đánh giá cao một số thành tựu của những trường phái nghiên cứu hiện đại như phương pháp hình thức” ở Nga, cấu trúc luận, kí hiệu học ở phương Tây, nhưng mặt khác, Bakhtin luôn phản đối khuynh hướng “phi nhân hóa” khoa học về con người. Thứ ba: Tính triết luận. Các công trình khoa học của M. Bakhtin luôn hướng tới những chân lí cuối cùng về thế giới và con người, hàm chứa nhiều ý niệm, tư tưởng cao sâu được tác giả hun đúc trong suốt cuộc đời mình và đã trả giá cho chúng bằng cả cuộc đời mình[14].

Phạm Vĩnh Cư nhấn mạnh, rằng một trong những công lao lớn của Bakhtin là ông đã nâng lí thuyết thể loại – một bộ phận vốn không được quan tâm lắm của khoa học văn học, đặc biệt ở các nước xã hội chủ nghĩa – lên một vị trí quan trọng chưa từng thấy. Bakhtin khẳng định, “không có tác phẩm văn học ngoài thể loại”. Theo ông, mỗi thể loại, nhất là thể loại lớn là hình thức thế giới quan của thời đại, nó thể hiện thái độ thảm mĩ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, lí giải thế giới và con người. Thể loại có “kí ức” của nó. Nó là cái trí nhớ siêu cá nhân của nghệ thuật. Mỗi thời đại lịch sử có hệ thống thể loại riêng của mình, trong đó những thể loại chính thể hiện tập trung nhất, nổi bật nhất tâm thức, tầm nhìn, những mối quan tâm, quan niệm và chuẩn mực giá trị của con người trong thời đại đó. Những thể loại chính ấy sẽ thu hút các thể loại khác vào trong quỹ đạo của chúng. Lịch sử văn học trước hết là lịch sử hình thành, phát triển, tương tác giữa các thể loại. Cho nên, thể loại mới là nhân vật chính yếu của tấn kịch lịch sử văn học, chứ không phải trường phái hoặc phương pháp sáng tác như người ta vẫn nghĩ.

Trong các thể loại văn học, M. Bakhtin tâm đắc nhất với tiểu thuyết. Ông xem tiểu thuyết là thể loại “chúa tể”, sản phẩm tinh thần tiêu biểu nhất cho thời đại mới của lịch sử loài người, là thành quả rực rỡ có giá trị như một bước nhảy vọt thực sự vĩ đại của hàng ngàn năm văn chương thế giới. Khảo cứu thể loại ấy, Bakhtin đã xác định những đặc điểm chung của tư duy văn học hiện đại và dự đoán vận mệnh dài lâu của nghệ thuật ngôn từ. Xây dựng lí thuyết chung về tiểu thuyết, Bakhtin đã “kiến tạo một triết học nhân bản, một luận thuyết về con người như một Bản Ngã sinh tồn trong và bằng sự tiếp xúc đối thoại với các Bản Ngã khác, với Cộng Đồng Bản Ngã”.

Phạm Vĩnh Cư có một nhận xét rất đáng lưu ý. Ông cho rằng trong các tiểu thuyết gia lớn của thế giới, Bakhtin đã sớm tìm tới Dostoievski và Rabelais như hai người đối thoại chính, hai vĩ nhân khác nhau như nước với lửa, nhưng mỗi người tương hợp một cách riêng với những tìm tòi tinh thần của ông.

Năm 1929, M. Bakhtin công bố công trình đầu tiên mang tên mình về Dostoievski. Trong cuốn sách ấy, Bakhtin đưa ra quan niệm về Dostoievski như một thiên tài đã sáng tạo ra một dạng tiểu thuyết hoàn toàn chưa từng có trước đó trong văn học Nga và văn học thế giới mà ông gọi là “tiểu thuyết phức điệu”. Theo Bakhtin, cống hiến to lớn nhất, có giá trị trường cửu nhất của Dostoievski là ở chỗ, nhờ cấu trúc “phức điệu” của thiểu thuyết, nhà nghệ sĩ ngôn ngôn từ đã kiến tạo được một mô hình thế giới “phức điệu” có khả năng phản ánh tính chất cực kì phức tạp, nhiều tiếng nói khác nhau của bản thân hiện thực. Có thể nói, “nguyên tắc phức điệu” vừa thể hiện lí tưởng thẩm mĩ – nghệ thuật, vừa thể hiện lí tưởng nhân sinh của Bakhtin. Ở thế giới nghệ thuật “phức điệu” của Dostoievski, nơi nhiều tiếng nói và ý thức độc lập cùng tồn tại, chúng bình quyền, đầy đủ giá trị, tác giả thì không chỉ nói về nhân vật mà còn đối thoại với nhân vật, nói với nhân vật từ vị thế của người “đứng ngoài”,  tiếng nói của nhân vật thành ra bình đẳng với tiếng nói của tác giả, M. Bakhtin đã tìm thấy một mẫu mực về thế giới con người như là một Cộng đồng của các Bản Ngã, mỗi Bản Ngã là một giá trị tự thân, không thể thay thế, một vũ trụ tinh thần giao tiếp đối thoại với các vũ trụ khác.

Sau chuyên khảo về Dostoievski, cuốn sách nổi tiếng thứ hai của Bakhtin là công trình về Rabelais: Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và phục hưng. Trong chuyên khảo này, phân tích tích tác phẩm của Rabelais, Bakhtin chỉ ra hai điều hệ trọng. Thứ nhất: Tiểu thuyết xóa bỏ “khoảng cách sử thi”. Nó đặt hình tượng vào khu vực tiếp giáp tối đa giữa thế giới nghệ thuật và thế giới ngoài nghệ thuật. Đặc điểm quan trọng hàng đầu không thể thiếu được của nó là lấy cái hôm nay, cái thực tại đang tiếp diễn, cái thì hiện tại đang hình thành làm xuất phát điểm nhận thức. Chức năng hàng đầu, sứ mệnh của tiểu thuyết là xét lại, đánh giá lại tất cả. Do đó nó mang tinh thần phi giáo điều triệt để. Thứ hai: quan hệ nhân quả giữa tiếng cười và tiểu thuyết. Theo Bakhtin, tiểu thuyết ra đời trong quá trình thân mật hóa thế giới và con người bằng tiếng cười. Tiếng cười kéo đối tượng lại gần để dễ nhìn thấy, nghe thấy. dễ sờ mó, chia cắt, phân tích. Tiếng cười giải phóng con người khỏi nỗi sợ hãi trước thế giới tự nhiên và thế giới xã hội với biết bao quyền lực, thế lực có quyền uy và sức mạnh đè bẹp nó. Nó là tiền đề cho mọi cuộc cách mạng, mọi bước nhảy vọt thực sự trong đời sống xã hội. Rabelais đã tiếp thu tiếng cười dân gian, học tập và cải biến ngôn ngữ của nó, sử dụng như một công cụ sắc bén để xây dựng lại những quan niệm về thế giới, đánh đổ thế giới quan trung cổ, thực hiện một cuộc cách mạng tư tưởng mở đầu cho thời đại mới trong lịch sử thế giới. Theo Bakhtin, trong lĩnh vực văn học, tiếng cười đã chuẩn bị những tiền đề thiết yếu cho sự ra đời của tiểu thuyết. Giữa thời đại sử thi và thời đại tiểu thuyết là một thời kì rất dài, thời kì hoạt động tích cực của những thể hài chế nhạo, giễu nhại các thể loại trang nghiêm, cao sang cũ. Các thể loại này làm tư duy nghệ thuật cũ, tạo cơ sở cho sự ra đời của tiểu thuyết. Cho nên, về mặt lịch sử, tiểu thuyết có nguồn cội sâu xa từ tiếng cười trong văn hóa dân gian.

Bakhtin không chỉ xác định cấu trúc, mà còn chỉ ra nguồn cội lịch sử của thể loại tiểu thuyết. Đằng sau câu chữ của hai cuốn sách, không chỉ có những nhận xét sâu sắc của nhà bác học lỗi lạc về các vấn đề thể loại văn học, mà còn có cả những suy tư đau đáu của ông về số phận con người và số phận về nền văn minh con người. Người đọc không thể không nhận ra rằng, khi con người chưa là cá nhân, chưa là Bản Ngã, nó có Cộng Đồng với vô vàn giá trị siêu cá nhân của đời sống cộng đồng. Đến khi trở thành cá nhân, thành Bản Ngã, con người đánh mất đời sống Cộng Đồng và những giá trị siêu cá nhân bị mai một, mà thiếu những giá trị siêu cá nhân, bản thân cá nhân sẽ tồn tại một cách què quặt. Trong bài viết đầy tâm huyết, phân tích cặn kẽ hai cuốn sách vĩ đại của Bakhtin, Phạm Vĩnh Cư kết luận: “Hai cuốn sách chính của Bakhtin, một cuốn về Dostoievski, một cuốn về Rabelais cho ta thấy ở Bakhtin hai mối bận tâm lớn, hai hướng tìm tòi, khẳng định, chứng tỏ ông đúng là con người của thời đại chúng ta. Nếu bằng cuốn sách về Dostoievski, Bakhtin góp tiếng nói khẳng định (trước tiên trước đồng bào của Dostoievski) giá trị độc lập, tự thân, cao quý nhất, không gì thay thế đực của cá nhân, của Bản Ngã, thì bằng công trình về Rabelais, ông nhắc nhở (trước tiên cho đồng bào của Rabelais) về những giá trị siêu cá nhân cũng không gì thay thế được của nhân quần, của cuộc sống Cộng Đồng. Hai địa chỉ người nhận được chọn rất có dụng ý”[15].

*

Trong những công trình nghiên cứu của mình về M. Bakhtin, Lã Nguyên tập trung vào 4 chủ đề chính: 1. Quá trình tiếp nhận Bakhtin ở Nga và trên phạm vi toàn thế giới. 2. Di sản triết học của Bakhtin. 3. Lí thuyết thể loại của Bakhtin. 4. M.Bakhtin và tự sự học theo hướng tân tu từ học. Ở ba chủ đề trước, Lã Nguyên không có phát hiện nào mới hơn so với những gì đã được nói trong các tiểu luận của Trần Đình Sử và Phạm Vĩnh Cư. Nhưng với chủ đề thứ tư này, La Nguyên đã góp phần đưa việc tiếp nhận di sản của M. Bakhtin sang một hướng mới, nên chúng tôi chỉ dừng lại ở nội dung này.

Theo Lã Nguyên, vào thời của Bakhtin, chưa hề tồn tại hệ thống mở rộng các thuật ngữ tự sự học mà giờ đây đã trở nên quen thuộc với độc giả. Vì thế, ta không tìm thấy nó trong di sản của ông. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông không quan tâm tới các vấn đề của tự sự học. Và tuy không sử dụng các khái niệm tự sự học hiện đại, nhưng, bằng hệ thống phạm trù riêng của mình, M. Bakhtin đã xây dựng cả một lâu đài lí thuyết đầy tính cách tân, đặt nền móng cho bước ngoặt tự sự học từ kinh điển chuyển qua hậu kinh điển.

Lã Nguyên cho rằng, hai cột trụ chính yếu của lâu đài lí thuyết nói trên là nhân cách luận(“personnalisme”) và siêu ngôn ngữ học (“métalinguistique”). Dựa vào hai trụ cột này, lí thuyết tự sự của M. Bakhtin đã xóa bỏ ranh giới từng được giăng ra để ngăn cách thi pháp học và từ chương học suốt từ cổ đại Hy Lạp cho tới hết thế kỉ XIX. Ch. Perelman gọi tự sự học hiện đại là “tân tu từ học” (“néorhétorique”)[16]. M. Bakhtin đã phát triển lí thuyết tự sự theo hướng “tân tu từ học” này.

Cũng theo Lã Nguyên, lí thuyết tự sự của M. Bakhtin đã tác động tới sự phát triển của “tân tu từ học” Tây Âu qua tư tưởng của ông về các hệ vấn đề sau đây: a) Lí thuyết siêu ngôn ngữ học và lời tự sự; b) Vấn đề sự kiện và tính sự kiện; c) Hình tượng tác giả và người trần thuật; d) Loại hình lịch sử của cấu trúc tự sự.

Bakhtin đặt thể loại văn học vào cùng dẫy với các thể loại lời nói để xét bản chất của nó. Ông cho rằng, chính bản chất lời nói làm nên bản chất của thể loại văn học. Cho nên, lời tự sự trở thành mối quan tâm hàng đầu của ông khi ông bàn về sử thi, hay tiểu thuyết. Ta hiểu vì sao Bakhtin viết Lời tiểu thuyếtTừ tiền sử lời tiểu thuyết. Trong Những vấn đề thi pháp Dostoievski, ông dành hẳn chương V bàn về Lời của Dostoievski. Trong Sử thi và tiểu thuyết (Về phương pháp luận nghiên cứu tiểu thuyết), khi nêu “ba đặc điểm cơ bản làm cho tiểu thuyết khác biệt về nguyên tắc với tất cả các thể loại khác”, đặc điểm đầu tiên được Bakhtin nêu lên cũng chính là “tính ba chiều có ý nghĩa phong cách học tiểu thuyết, gắn với ý thức đa ngữ được thể hiện trong tiểu thuyết”[17].

Nhưng lời tự sự chỉ là một bộ phận thuộc đối tượng trong triết học ngôn ngữ mà Bakhtin gọi là “siêu ngôn ngữ học”. Thuật ngữ “siêu ngôn ngữ học” (tiếng Nga: “металингвистика”) lần đầu tiên được Bakhtin sử dụng trong Vấn đề văn bản trong ngôn ngữ học, ngữ văn học và các môn khoa học nhân văn khác (1959 – 1960). Nhưng trước đó, năm 1953,  M. Bakhtin đã viết Vấn đề thể loại lời nói và toàn bộ bộ công trình được dành cho những vấn đề “siêu ngôn ngữ học”.

Trong Những vấn đề thi pháp Dostoievski, Bakhtin nói rõ ông sử dụng thuật ngữ ấy để trỏ “ngành nghiên cứu chưa thành bộ môn riêng, chuyên nghiên cứu các phương diện của đời sống ngôn từ vượt hẳn ra ngoài phạm vi của ngôn ngữ học”. Ông đối lập ngôn ngữ học và siêu ngôn ngữ học: “Ngôn ngữ học và siêu ngôn ngữ học cùng nghiên cứu một hiện tượng cụ thể, rất phức tạp và đa diện, ấy là lời, nhưng chúng nghiên cứu từ những bình diện khác nhau và quan điểm khác nhau. Chúng cần bổ sung cho nhau, nhưng không thể lẫn lộn”[18].

Lã Nguyên cho rằng, có thể xác định sự khác nhau giữa sơ đồ “siêu ngôn ngữ học” của M. Bakhtin với sơ đồ ngôn ngữ học của F. de Saussure ở điểm mấu chốt sau đây: sơ đồ ngôn ngữ học của  Saussure được kiến tạo trên nền tảng của cặp đối lập “ngôn ngữ – lời nói”, sơ đồ “siêu ngôn ngữ học” của M. Bakhtin được xây dựng trên bốn phạm trù bao trùm: “ngôn ngữ” (như một hệ thống), “lời nói” (như tổng thể các văn bản), “giao tiếp lời nói” (hay “tương tác lời nói”, như một loại hình hoạt động xã hội) và phát ngôn. Trong bốn phạm trù trên, siêu ngôn ngữ học của Bakhtin đặt trọng tâm vào “giao tiếp lời nói”, lấy “phát ngôn” là đối tượng nghiên cứu chính yếu.

Bakhtin xem “phát ngôn”, chứ không phải là các đơn vị ngôn ngữ học như câu, hay từ, là đơn vị thực tế của giao tiếp lời nói. Ông viết: “Bản thân lời nói chỉ có thể tồn tại trong thực tế dưới hình thức những phát ngôn cụ thể của những người nói riêng lẻ, những chủ thể của lời nói ấy. Lời nói bao giờ cũng được khuôn vào hình thức phát ngôn thuộc một chủ thể lời nói nào đó, bên ngoài hình thức phát ngôn ấy, nó không tồn tại”[19]. Theo M. Bakhtin, cấu trúc của phát ngôn có ba đặc điểm cơ bản:

Thứ nhất: Ranh giới rạch ròi. Ranh giới này được xác định bởi sự thay đổi các chủ thể lời nói, tức là sự thay đổi người nói. Mọi phát ngôn – từ lời thoại ngắn (một từ) trong đối thoại sinh hoạt cho tới pho tiểu thuyết trường thiên hay một công trình khoa học đều có cái mở đầu tuyệt đối và cái kết thúc tuyệt đối: trước cái mở đầu của nó là phát ngôn của những người khác, sau cái kết thúc của nó là phát ngôn hồi đáp của người khác. Sự thay đổi các chủ thể lời nói – một sự thay đổi có tác dụng tạo khung cho phát ngôn và tạo ra cái mặt nạ rắn chắc, phân giới nghiêm nhặt  với các phát ngôn khác có quan hệ với nó – là đặc điểm đầu tiên của phát ngôn như một đơn vị lời nói, tách biệt nó với các đơn vị ngôn ngữ.

Thứ hai: Tính đối thoại nội tại. Đặc điểm này thể hiện tính tích cực và tinh thần chủ động của các chủ thể tham gia giao tiếp lời nói. Với M. Bakhtin, “giao tiếp lời nói” và “tương tác lời nói” là những khái niệm đồng nghĩa. Ở đây, người nói bao giờ cũng lường trước phản ứng của người nghe để kiến tạo phát ngôn như một câu trả lời. Anh ta  phải tính cả tới những phát ngôn trước kia và phát ngôn sau này. Nói theo M. Bakhtin,  không phát ngôn cụ thể nào về sự vật là phát ngôn đầu tiên; phát ngôn nào cũng chỉ là sự nối lời, tiếp lời, là sự đối thoại tranh biện. Vì thế, ngay từ đầu phát ngôn bao giờ cũng đã là một chỉnh thể; chỉnh thể này không chỉ thể hiện một lập trường tác giả cụ thể, truyền đạt một nội dung đối tượng cụ thể, mà bao giờ cũng đáp lại một ngữ cảnh trước đó và đoán trước sự phản ứng mang tính hồi đáp. Cho nên, nguyên tắc đối thoại nội tại là đặc điểm quan trọng nhất của phát ngôn. Đặc điểm này là nguồn cội của một phẩm tính khác: tính xã hội của phát ngôn. Khác F. de Saussure, M. Bakhtin không xem lời nói là hành vi mang tính cá nhân. Ông nhìn thấy trong phát ngôn vũ trụ thu nhỏ của xã hội: “Mỗi phát ngôn riêng lẻ là một khâu của mạch giao tiếp lời nói. Nó có các ranh giới rõ ràng được xác định bởi sự thay đổi các chủ thể lời nói (người nói), nhưng trong phạm vi của những ranh giới ấy, phát ngôn, tựa như một đơn tử của Leibniz, vẫn phản ánh tiến trình lời nói, phản ánh những phát ngôn của người khác và cả những khâu của chuỗi giao tiếp đã diễn ra trước đó (đôi khi rất gần, nhưng đôi khi – trong các lĩnh vực giao tiếp văn hóa, rất xa)”[20]. Với ý nghĩa như thế, bản chất xã hội của phát ngôn không phải là phẩm tính bề ngoài của hoạt động lời nói, mà là phẩm tính chìm sâu trong các tầng vỉa của giao tiếp văn hóa.

Thứ ba: Tính chỉnh thể hoàn kết đặc biệt của phát ngôn. Đặc điểm này gắn chặt với đặc điểm thứ nhất đã nêu ở trên. Nó đảm bảo cho sự hồi đáp ở phát ngôn tiếp theo. Nó được xác định bởi ba yếu tố gắn bó chặt chẽ với chỉnh thể hữu cơ của phát ngôn: “1) tính cạn kiệt về ý nghĩa sự vật, 2) ý đồ lời nói, hoặc ý chí của người nói, 3) các hình thức kết cấu – thể loại điển hình của sự hoàn kết”[21].

Từ các tiền đề lí thuyết nói trên, M. Bakhtin đã khám phá đặc điểm quan trọng nhất của lời văn tự sự thuộc phạm vi siêu ngôn ngữ học: “quan hệ đối thoại giữa các phát ngôn, phát ngôn riêng lẻ, cũng như phát ngôn từ bên trong”[22]. Ông phát hiện nhiều biểu hiện đa dạng của đặc điểm bao trùm ấy, ví như “lời đa thanh của tiểu thuyết” (tương đương với “hétéroglossie” trong tự sự học hiện đại), hệ thống “giọng” (tương ứng với hệ thống “nhãn quan” của tự sự học hiện đại), hoặc “lời hai giọng”…

Trong Những vấn đề thi pháp Dostoievski, ngay ở bản in lần đầu năm 1929, lấy sáng tác của Dostoievski làm chất liệu, M. Bakhtin đã đặt ra hàng loạt vấn đề then chốt của tự sự học hiện đại, ví như các loại hình lời văn của văn xuôi, mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa “lời của nhân vật và lời của câu chuyện”. Vào năm 1929, trong cuốn sách viết chung với V.N. Voloshinov, cuốn Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ, ông đề xướng khái niệm “lời bán trực tiếp”. Với tự sự học hiện đại, đây  cũng là khái niệm có tầm quan trọng đặc biệt. Đến những năm 1930, trong Lời văn trong tiểu thuyết, M. Bakhtin tiếp tục nghiên cứu và chỉ ra hiện tượng lời văn trần thuật đa thanh của tiểu thuyết trong môi trường đa ngữ. Ông khẳng định rằng, với tư cách là người nói, “con người xã hội” không sử dụng các “mã”, “các luật lệ cố định trừu tượng”, mà thường xuyên tiếp xúc với vô số thực tiễn diễn ngôn, tổng thể các diễn ngôn ấy tạo thành văn hóa lời nói đầy năng động của một xã hội nào đó. Ông viết: “Ra đời trong lịch sử, ngôn ngữ là sự hình thành tiếng nói đa thanh với nhan nhản những ngôn ngữ đã hết thời và ngôn ngữ của mai sau, đầy những quí ông ngôn từ khệnh khạng đang hấp hối, đám mới nổi, vô khối lũ tấp tểnh thành ngôn ngữ, lúc nhúc những ngôn ngữ thành đạt nhiều hay ít, với tầm bao quát xã hội rộng hay hẹp, với phạm vi tư tưởng hệ này hay khác vận dụng”[23]. Nhận ra động lực văn hóa xã hội ở quá trình hình thành ngôn ngữ, M. Bakhtin phát hiện quan hệ đối thoại nội tại của các phát ngôn như một hiện tượng siêu ngữ: “Trên lãnh thổ dường như của mỗi phát ngôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh và sự tác động qua lại căng thẳng giữa lời của mình và của người khác, diễn ra quá trình phân định ranh giới và soi sáng lẫn nhau bằng đối thoại giữa chúng”[24].

Cách diễn giải của Bakhtin về sự kiện và tính sự kiện là đóng góp lớn nhất của ông cho tự sự học hiện đại. Lã Nguyên đã hệ thống lại những luận điểm chính của M. Bakhtin về sự kiện và tính sự kiện như sau:

Thứ nhất: Bakhtin phân biệt “sự kiện kể” và sự kiện được kể trong cấu trúc của các diễn ngôn tự sự. Năm 1973, M. Bakhtin viết thêm chương Những nhận xét kết luận bổ sung cho chướng Các hình thức thời gian và Chronotop trong tiểu thuyết. Trong chương này, ông đã trình bày rõ ràng bản chất “kép” trong cấu trúc sự kiện của diễn ngôn tự sự được tạo thành bởi sự thống nhất của sự kiện giao tiếp và sự kiện tham chiếu. Ông viết: “Trước mặt chúng ta có hai sự kiện – sự kiện được kể trong tác phẩm và chính sự kiện kể (mà chính chúng ta cũng tham gia vào với tư cách người nghe); những sự kiện đó diễn ra vào những thời gian khác nhau (khác biệt cả về dung lượng) và ở những địa điểm khác nhau, đồng thời chúng lại được thống nhất không tách biệt trong một sự kiện phức chung mà chúng ta có thể gọi là tác phẩm trong tính toàn vẹn sự kiện của nó… Chúng ta tiếp nhận sự toàn vẹn đó trong chỉnh thể không tách biệt của nó, nhưng đồng thời chúng ta hiểu cả sự khác biệt của các thành tố tạo nên nó”[25].

Thứ hai: Sự kiện là sự tương tác giữa hai thực tai. Bằng cách chiết tự chữ “sự kiện” trong tiếng Nga, Bakhtin giải thích phạm trù sự kiện theo tinh thần triết học nhân cách luận của ông. Theo ông, chữ “событие” (“sự kiện”) trong tiếng Nga có thể tách thành hai bộ phận: “со” (“cùng”) và “бытие” (“tồn tại”). “Sự kiện” là “cùng-tồn tại” (“со-бытие”), là sự tương tác, sự gặp gỡ của hai thực tại[26]. Ngoài ra, chí ít, một trong hai thực tại ấy phải là thực tại của ý thức con người, còn “sự kiện kể chuyện” trong giao tiếp được xem là sự tác động qua lại giữa hai, hoặc một số ý thức.

Thứ ba: Tính biểu niệm của sự kiện. Sự kiện là hiện tượng “cố ý”, có ý thức, vị thế của nó lệ thuộc vào khuynh hướng giá trị của ý thức,  khuynh hướng này “không thể thay đổi tồn tại, nếu có thể nói như thế, về mặt vật chất <…> nó chỉ có thể làm thay đổi ý nghĩa (thừa nhận, bào chữa v.v…), đó là sự tự do của chứng nhân, vị quan tòa. Sự tự do này được biểu hiện trong lời nói. Chân lí, sự thật chỉ là phẩm tính của tồn tại được nhận thức, được nói tới, chứ không phải của bản thân tồn tại”[27]. Giống như chân lí, tính sự kiện cũng không phải là phẩm chất “tự nhiên” của cái quanh ta, tính sự kiện là phương thức quan hệ đặc thù (tự sự) của ý thức con người với tồn tại (có tính chất lựa chọn tính quá trình và điển lễ), còn sự kiện là vị thế của một số mặt cắt đời sống trong kinh nghiệm của chúng ta. Bởi vì nếu chỉ quan sát dòng chảy liên tục của cái xẩy ra mà thiếu sự định dạng trần thuật (chia nhỏ) thì không thể hình dung được bất kì sự kiện nào. Bà Ludmila Gogotisvili, nhà văn bản học chuyên nghiên cứu văn bản của Bakhtin, cho rằng“một trong những bình diện có giá trị nhất” của tự sự học hiện đại là phát hiện của M. Bakhtin về  “điểm gặp gỡ giữa đối tượng và ý thức của người khác”[28].

Có thể khảo sát quan điểm của M. Bakhtin về hình tượng tác giả và  người trần thuật trong các công trình nghiên cứu ở cả ba giai đoạn hoạt động khoa học của ông: 1) Tác giả và nhân vật trong hoạt động thẩm mĩ (nửa đầu và giữa những năm 1920), 2) Những vấn đề thi pháp Dostoievski (in lần đầu năm 1929 với nhan đề Những vấn đề sáng tác của Dostoievski), 3) Các công trình nghiên cứu, ghi chép, bài phát biểu vào những năm 1950 – 1970 gồm: Vấn đề văn bản trong ngôn ngữ học, ngữ văn học, và các khoa học nhân văn khácGhi chép khoa học vào những năm 1960 – đầu những năm 1970Những nhận xét kết luận (1973) viết bổ sung vào Các hình thức thời gian và chronotop trong tiểu thuyết

Khảo sát những công trình nói trên, La Nguyên nhận xét sơ bộ như sau. Thứ nhất: Ở thời của Bakhtin, do chưa có một hệ thống thuật ngữ tự sự học chặt chẽ, nên phạm trù “tác giả” không phải bao giờ cũng được ông sử dụng thống nhất. Chẳng hạn, vào những năm 1920, khi viết Những vấn đề sáng tác của Dostoievski, Bakhtin thường gọi “người trần thuật/người kể chuyện” là “tác giả”. Thứ hai: có thể tìm hiểu nội hàm của phạm trù tác giả trong trước tác của M. Bakhtin từ góc độ triết luận nhân học và từ góc độ nghiên cứu văn học. Từ góc độ triết luận nhân học, trong quan niệm của Bakhtin, mọi người nói đều là “tác giả”. Tác giả là  “người nói”, “người nói bất kì”. Đối lập với tác giả là “người khác”. Bởi vậy, trong những công trình ở thời kì đầu của Bakhtin, cặp đối lập “tác giả và nhân vật” hoàn toàn đồng nhất với song đề “tôi” và “người khác”. Ở thời kì này, quan hệ giữa tác giả và nhân vật còn thường được Bakhtin so sánh với quan hệ giữa “thượng đế” và con người. Ông nói: “Bản chất thượng đế của nghệ sĩ thể hiện ở sự can dự của anh ta từ vị thế đứng ngoài tối cao”[29]. Từ góc độ nghiên cứu văn học, với Bakhtin, tác giả là nhân tố kiến tạo nghĩa, tổ chức văn bản, có thể phân biệt theo 2 cấp độ: a) tác giả – người sáng tạo, b) tác giả – người trần thuật. Ngoài ra, trong một số trường hợp, Bakhtin còn nói tới tác giả tiểu sử hiểu theo ngĩa là con người có thật, bằng xương bằng thịt.

Nhìn chung, quan niệm về hình tượng tác giả của Bakhtin được hình thành tương đối hoàn chỉnh trong hai công trình Tác giả và nhân vật trong hoạt động thẩm mĩ và Vấn đề nội dung, chất liệu và hình thức trong sáng tạo nghệ thuật ngôn từ. Sau này, cho tới tận những năm 1970, Bakhtin vẫn trung thành với quan niệm về tác giả được trình bày ở hai công trình trên. Với ông, tác giả trước hết là chủ thể hoạt động thẩm mĩ. Đó là người tổ chức, người sáng tạo ra toàn bộ thế giới nghệ thuật. M. Bakhtin thường gọi tác giả – sáng tạo này là “tác giả gốc”  (tiếng Nga: “первичный автор”). Phạm trù cơ bản được ông sử dụng để mô tả “tác giả gốc” là sự “bao bọc trong im lặng”, hoặc “vị thế đứng ngoài”, “vị thế siêu việt”. Chẳng hạn, trong Vấn đề văn bản…, M. Bakhtin khẳng định, rằng văn học là “nghệ thuật nói gián tiếp”[30].  Ở đó, “tác giả gốc được bao bọc trong im lặng, nhưng sự im lặng này có thể tiếp nhận những hình thức biểu hiện khác nhau”. Theo Bakhtin, nếu tác giả “phát biểu bằng lời trực tiếp”, thì anh ta sẽ “biến thành nhà chính luận, nhà đạo đức, hoặc nhà khoa học”[31]. So sánh lĩnh vực thẩm mĩ với địa hạt nhận thức và luân lí, Bakhtin khẳng định: “Nghệ sĩ không can thiệp vào sự kiện giống như người tham gia trực tiếp vào đó…, anh ta giữ vị trí quan trọng bên ngoài sự kiện giống như người quan sát, tuy không quan tâm nhưng hiểu rõ ý nghĩa giá trị của những gì đang xẩy ra…”. Nhờ đứng ở “vị trí bên ngoài nội dung, bên ngoài xu hướng nhận thức – luân lí”, nghệ sĩ có được khả năng “hợp nhất, nhào nặn, hoàn kết sự kiện từ phía bên ngoài… Tác giả – người sáng tạo là nhân tố cấu trúc của hình thức nghệ thuật”, và vì thế, sự thống nhất của tác phẩm là “sự thống nhất trong việc bao quát, nắm bắt đối tượng và sự kiện, chứ không phải là sự thống nhất của đối tượng và sự kiện”[32]. Rất dễ nhận ra, khái niệm “tác giả gốc” của M. Bakhtin hoàn toàn đồng nghĩa với khái niệm “tác giả hàm ẩn” của tự sự học phương Tây, hoặc “tác giả trừu tượng” của W. Schmid[33].

Bakhtin phân biệt “tác gải gốc” với “tác giả phái sinh” (tiếng Nga: “вторичный автор”): “Chúng ta bắt gặp tác giả – người sáng tạo ngay trong tác phẩm, nhưng bên ngoài chronotop được mô tả, vậy mà tựa như tiếp xúc được với nó”[34]. Ở một chỗ khác, ông nói: “Tác giả gốc (không phải do được sáng tạo ra) và tác giả thứ sinh (hình tượng tác giả do tác giả gốc sáng tạo ra) <…> Hình tượng người sáng tạo (tức là tác giả gốc) không thể nào nhập được vào hình tượng do anh ta sáng tạo”[35]. Qua sự phân biệt của M. Bakhtin, có thể thấy rõ, “tác giả gốc” là sự “nhân cách hóa ý đồ của tác phẩm”, hoặc, theo cách diễn đạt của W. Schmid, là một “bản thể mang hình người”. Nó là “trọng tài tối cao”, là “Thượng đế” không bị định giá và đứng ngoài sự định giá. Nó can dự vào thế giới do nó sáng tạo ra bằng “tình yêu” và “trách nhiệm”, chứ không phải bằng sự định giá tư tưởng. Trong khi đó, tác giả phái sinh xuất hiện trong cấu trúc và ý nghĩa của văn bản nghệ thuật. Nó là một giá trị tư tưởng, phạm trù “cấp độ”. Quan điểm tác giả được thể hiện trong kết cấu – truyện kể, trong cấu trúc không – thời gian và cấu trúc thể loại của văn bản. Nó tạo nên “đỉnh cao” của trật tự đẳng cấp mà nền móng là hình thức trần thuật của tác giả. Tư tưởng tác giả có thể gắn với hình thức kết cấu nói trên theo những kiểu khác nhau: lời người trần thuật có thể trực tiếp tham gia định giá, cũng có thể mang màu sắc trung tính trong tương quan với tư tưởng tác giả. Ở cấp độ cao nhất, lời biến thành giọng thuần túy. Đến lượt mình, giọng cũng là phạm trù cấp độ, có tiêu điểm mà M. Bakhtin thường gọi là “trung tâm tác giả”.

Lí luận tiểu thuyết là phần quan trọng nhất trong lí thuyết tự sự của M. Bakhtin. Lí thuyết của ông không chỉ xác định cấu trúc thể loại, mà còn mô tả tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của nó.

Về cấu trúc, theo M. Bakhtin, tiểu thuyết là thể loại trẻ. Nó ra đời sau khi có chữ viết, bộ xương thể loại của nó chưa đông kết, các lực lượng cấu thành của nó đang phát triển. Vì thế, ông tìm cách tiếp cận tiểu thuyết như một thể loại luôn biến chuyển, thể loại đi đầu trong tiến trình phát triển của toàn bộ văn học thời đại mới. Ông tìm thấy ba đặc điểm cấu trúc khiến tiểu thuyết khác về nguyên tắc với các thể loại khác: “1/ tính ba chiều có ý nghĩa phong cách học tiểu thuyết, gắn liền với ý thức đa ngữ được thể hiện trong tiểu thuyết; 2/ sự thay đổi cơ bản các tọa độ thời gian của hình tượng văn học trong tiểu thuyết; 3/ khu vực mới, nơi xây dựng hình tượng văn chương tiểu thuyết, chính là khu vực xúc tiếp tối đa với cái hiện tại (đượng đại) ở thì không hoàn thành của nó”[36]. Ở điểm thứ nhất, M. Bakhtin nhấn mạnh tính đối thoại của lời tiểu thuyết. Tiểu thuyết sử dụng rộng rãi lời đối thoại như một đặc điểm của phong cách thể loại. Ở điểm thứ hai, M. Bakhtin chỉ ra sự khác biệt giữa tiểu thuyết và sử thi: hình tượng sử thi được đẩy vào khu vực “quá khứ tuyệt đối” tạo ra tâm thế sùng mộ, cung kính trước đối tượng trần thuật; hình tượng tiểu thuyết được kiến tạo ở thời “hiện tại chưa hoàn thành”, ở cái “đương đại đang tiếp diễn, cho phép người trần thuật tiếp cận nó bằng thái độ “suồng sã”, thân mật”. Điểm thứ ba là hệ quả tất yếu của hai điểm trên: khu vực thẩm mĩ của tiểu thuyết là khu vực “tiếp xúc tối đa” với khu vực ngoài thẩm mĩ thuộc về cái đương đại đang tiếp diễn.

Về lịch sử, M. Bakhtin tập trung nghiên cứu sự hình thành của tiểu thuyết ở thời cổ đại. Ông xác định ba loại hình chronotop:  choronotop phiêu lưu thử thách, chronotov phiêu lưu sinh hoạt và chronotop tiểu sử. Mỗi loại hình như thế là một kiểu thống nhất không – thời gian, nó tồn tại như một loại tổ chức thế giới nghệ thuật thể hiện một quan niệm tư tưởng nào đó của con người. Tiểu thuyết của Dostoievski thường tập trung vào những giai đoạn khủng hoảng, đột biến tư tưởng, gần với chronotop phiêu lưu, thử thách. Trong khi đó, tiểu thuyết của L. Tolstoi lại gần với chronotop tiểu sử. Không chỉ nghiên cứu tiểu thuyết ở giai đoạn hình thành, Bakhtin còn chỉ ra logic phát triển lịch sử của nó. Ông nhìn thấy “những số phận lớn lao và cơ bản của văn học”  ở quá trình trình phát triển của tiểu thuyết như là quá trình đấu tranh lâu dài giữa hai nguyên tắc thế giới quan: độc thoại và đối thoại. Theo M. Bakhtin, các loại quan điểm độc thoại về thế giới thực chất là ngôn ngữ xã hội (“ngôn ngữ giai cấp”, “ngôn ngữ thế hệ”, “ngôn ngữ chính trị”…) đầy ắp nội dung tư tưởng hệ, thể hiện nhãn quan giá trị của một “nhóm xã hội cụ thể’, một “thể loại lời nói”, một “thời đại cụ thể”. Đó là những ngôn ngữ đơn trị, có tham vọng vắt kiệt nghĩa đối tượng bằng một phát ngôn duy nhất. Chúng đinh ninh quan điểm về thế giới của mình là quan điểm duy nhất đúng và duy nhất có quyền tồn tại. Chúng tự khép kín trong bản thân, trở thành “điếc đặc”, không chấp nhận cái nhìn khác và xa lạ với với tinh thần tự phê phán. M. Bakhtin cho rằng, thế giới quan độc thoại thể hiện rõ nhất trong huyền thoại và trong các thể loại “thẳng băng” như sử thi (anh hùng ca), trữ tình (thơ xướng họa, tụng ca), kịch (bi kịch). Từ thế kỉ XVII đổ về trước, các thể loại ấy tạo thành khu vực văn học loại “cao” được M. Bakhtin gộp chung vào khái niệm “thi ca”. Nhưng cuộc đời thường cũng phức tạp hơn, phong phú hơn so với chân lí được đóng khuôn trong cái nhìn độc thoại. Đem cái này áp vào cái kia thể nào cũng có sự vênh lệch, giữa chúng chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều “kẽ hở”, “khe nứt”. Những “khe nứt”, “kẽ hở” ấy giúp chúng “soi sáng lẫn nhau”, “phê phán lẫn nhau”. Áp lực đời sống làm lung lay quyền uy của các ngôn ngữ độc thoại. Chúng buộc phải phải thừa nhận mình chỉ là một trong những cái nhìn có thể thể có trước thế giới. Để tồn tại, chúng buộc phải tranh luận với các quan điểm khác. Và như thế, bắt đầu tham gia vào mối quan hệ đối thoại xã hội, tạo thành bầu khí quyển đa ngữ. Tiểu thuyết nẩy sinh và được nuôi dưỡng trong bầu khí quyển ấy. Nó là sự chuyển dịch của nguyên tắc đối thoại sang bình diện văn học. Lịch sử của tiểu thuyết trước hết là lịch sử phát triển của nguyên tắc “đa ngữ”, là lịch đấu tranh lâu dài giữa “đối thoại” và “độc thoại”, giữa “văn xuôi” với “thơ”, giữa “tiểu thuyết” với “sử thi”. Cuộc đấu tranh này bắt đầu diễn ra từ thời cổ đại và trung đại, nhưng phải đến thời hiện đại, môi trương đa ngữ, nguyên tắc đối thoại và tiểu thuyết mới giành được thế ưu thắng hoàn toàn.  Gargantua và Pantagruel của F. Rabelais, Don Quixote của Cervantes là những mẫu mực đầu tiên của tiểu thuyết hiện đại. Sáng tác của Ch. Grimmelshausen, Ch. Sorel, P. Scarron, H. Fielding, L. Sterne, J. Paul mở đường cho sự phát triển rực rỡ của tiểu thuyết ở thế kỉ XIX mà đỉnh cao là tiểu thuyết đa thanh, “phức điệu” của F.M. Dostoievski. Quan trọng hơn, tiểu thuyết hiện đại kéo tất cả các thể loại văn học khác vào quĩ đạo phát triển của nó. Với ý nghĩa như thế, lịch sử của tiểu thuyết thể hiện xu hướng vận động của lịch sử văn hóa nhân loại[37].

*

Gần bốn chục năm nay, những tư tưởng triết học, mĩ học, lí thuyết thể loại, nhất là lí thuyết tiểu thuyết và “nguyên tắc đối thoại” của M. Bakhtin đã được vận dung rộng rãi, tạo nên sự đột phá trong nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn, luận án của các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên theo học các ngành khoa học xã hội – nhân văn ở Việt Nam.

Nhân đây, chúng tôi thấy không thể không nhắc tới một trường hợp đặc biệt, ấy là câu chuyện về tiểu sử và tác quyền một số tác phẩm của M. Bakhtin. Trong thời gian gần đây, Ngô Tự Lập đã xới lên vấn đề ấy trong một số tiểu luận đăng trên báo mạng và cả báo giấy[38]. Trên tạp chí “Nhà văn và tác phẩm”, Trần Đình Sử và Lã Nguyên đã có bài viết trao đổi với Ngô Tự Lập về vấn đề này[39]. Đây vốn là câu chuyện từng được được đặt ra ở Nga và một số nước trên thế giới, xung quanh câu chuyện ấy đã diễn ra nhiều cuộc tranh luận kéo dài suốt ba bốn chục năm nay mà vẫn chưa thấy hồi kết. Vả lại, công trình khảo luận của tôi chỉ có nhiệm vụ nghiên cứu quá trình tiếp thu các tư tưởng văn nghệ nước ngoài vào Việt Nam. Cho nên, ở đây, chúng tôi sẽ không làm công việc tổng thuật quan điểm của các học giả Việt Nam về vấn đề tiểu sử và tác quyền của M. Bakhtin.

[1] Xem: M. Bakhtin – Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọndịch và giới thiệu). “Trường viết văn Nguyễn Du”, H., 1992.

[2] Xem: Lí luận, phê bình văn học thế giới thế kỉ XX (Lộc Phương Thủy chủ biên). Nxb Giáo dục, 2007, tr. 376 – 480.

[3] Xem: Lã Nguyên – Lí luận văn học – Những vấn đề hiện đại. Nxb Đại học Sư phạm, H., 2012, tr. 7 – 54.

[4] M. Bakhtin – Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch; Trần Đình Sử viết lời giới thiệu). Nxb Giáo dục, 1993.

[5] M.M. Bakhtin – Sáng tác của François Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và Phục hưng (Từ Thị Loan dịch, Hoàng Ngọc Hiến hiệu đính). Nxb Khoa học xã hội, H., 2006.

[6] V.N. Voloshinov – Chủ nghĩa Mác và triết học ngôn ngữ (Ngô Tự Lập dịch và giới thiệu). Nxb ĐHQG Hà Nội, 2015.

[7] M.L. Gasparov – Lịch sử văn học như là sự sáng tác và nghiên cứu: trường hợp Bakhtin (La Khắc Hòa dịch)// “Nghiên cứu văn học”, số 12/ 2005, tr. 91 – 100.

[8] Tz. Todorov – Di Sản Bakhtin (La Khắc Hòa dịch)// “Nghiên cứu văn học”, số 7/2006, tr. 54 -62.

[9] Tz. Todorov – Mikhil Bakhtin – Nguyên lí đối thoại (Đào Ngọc Chương dịch). Nxb ĐHQG tp Hồ Chí minh, 2004.

[10] J. Kristeva – Một nền thi pháp học sụp đổ (Lã Nguyên dịch)// “Nghiên cứu văn học”, số 7/2011, tr. 3 – 28.

[11] Xem: Lã Nguyên – M. Bakhtin: Nhà triết học, nhà nghiên cứu văn học. Tạp chí “Văn hóa Nghệ An”, nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-gioi/m-bakhtin-nha-triet-hoc,-nha-nghien-cuu-van-hoc.

[12] Xem: Trần Đình Sử (chủ biên) – Tự sự học – lí thuyết và ứng dụng. Nxb Giáo dục, 2017, tr. 394 – 408.

[13] Xem: Trần Đình Sử – Lời giới thiệu// M. Bakhtin – Những vấn đề thi pháp Dostoievski(Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, Trần Đình Sử viết lời giới thiệu). Nxb Giáo dục, 1993, tr. 5 – 10.

[14] Xem: Phạm Vĩnh Cư – Lời nói đầu// M. Bakhtin – Lí luận và thi pháp tiểu thuyết. Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội, 1992, tr. 5 – 6.

[15] Phạm Vĩnh Cư – Lời nói đầu// M. Bakhtin – Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn, dịch và giới thiệu). Trường viết văn Nguyễn Du, H., 1992, tr. 17.

[16] Xem: Ch. Perelman – OlbrechtsTytecal L. Traite de l’argumentation. La nouvelle rhetorique. Paris, 1958.

[17] M. Bakhtin – Những vấn đề văn học và mĩ học. Nxb “văn học nghệ thuật”. M., 1975. Tr. 454 – 455.

[18] M.M. Bakhtin – Tuyển tập tác phẩm (Bộ 7 tập). T.6. M., 2002. Tr. 293.

[19] M.M. Bakhtin – Vấn đề thể loại lời nói// Lã Nguyên (Tuyển dịch) –  Lí luận văn học – Những vấn đề hiện đại. Nxb ĐHSP Hà Nội, 2012, tr. 23.

[20] M.M. Bakhtin – Vấn đề thể loại lời nói// Tlđd, tr. 23

[21] M.M. Bakhtin – Vấn đề thể loại lời nói// Tlđd, tr. 29.

[22] M.M. Bakhtin – Tuyển tập tác phẩm (Bộ 7 tập). T.5, Tr. 321.

[23] M.M. Bakhtin – Những vấn đề văn học và mĩ học. M., 1975. Tr.168 – 169.

[24] M.M. Bakhtin – Tlđd. Tr. 166 – 167

[25] M.M. Bakhtin – Những vấn đề văn học và mĩ học. M., 1975. Tr. 403.

[26] Xem: M.M. Bakhtin – Tuyển tập tác phẩm (Bộ 7 tập). T.6. Tr. 29, 85, 99, 106…

[27] M.M. Bakhtin – Tuyển tập tác phẩm (Bộ 7 tập). T.6. Tr. 396 – 397.

[28] Ludmila Gogotisvili – Nói gián tiếp. M., 2006. Tr. 261.

[29] M.m. Bakhtin – Mĩ học sáng tạo ngôn từ (In lần thứ 2). Nxb “Nghệ thuật”. M., 1986. Tr. 175.

[30] M.M. Bakhtin – Mĩ học sáng tạo ngôn từ. M., 1979. Tr. 289.

[31] M.M. Bakhtin – Tlđd. Tr.353.

[32] M.M. Bakhtin – Những vấn đề văn học và mĩ học. M., 1975. Tr. 33, 59, 58, 64

[33] Về “tác giả trừu tượng”, xem: W. Schmid – Tự sự học. M., 2003. Tr. 25 – 36.

[34] M.M. Bakhtin – Những vấn đề văn học và mĩ học. Tr. 403.

[35] M.M. Bakhtin – Mĩ học sáng tạo ngôn từ. Tr. 353.

[36] M. Bakhtin – Lí luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư tuyển chọndịch và giới thiệu). “Trường viết văn Nguyễn Du”, H., 1992, tr.32-33.

[37] Xem: La Khắc Hòa (Lã Nguyên) – Tự sự học theo hướng tân tu từ học và kí hiệu học văn hóa// Trần Đình Sử (Chủ biên), Trần Ngọc Hiếu, Đỗ Văn Hiểu, La Khắc Hòa, Cao Kim Lan Nguyễn Thị Ngọc Minh, Lê Trà My, Lê Lưu Oanh, Nguyễn Thị Hải Phương – Tự sự học. Lí thuyết và ứng dụng. Nxb Giáo dục, 2017, Tr. 394 – 408.

[38] Thí dụ, xem: Ngô Tự Lập – Bakhtin, Voloshinov: Vấn đề tác quyền và những lí do lịch sử của một huyền thoại// “Lí luận, phê bình văn học nghệ thuật”, số 33, tháng 5-2015, tr. 84 – 94.

[39] Xem: Trần Đình Sử, Lã Nguyên – Mấy suy nghĩ về việc nghiên cứu M. Bakhtin. “Nhà văn và tác phẩm”, số 6 (tháng 7-8), 2014, tr. 196 – 200.

Posted in: Nghiên cứu - phê bình

Post by: Vu Nguyen HNUE
15-10-2020