1. Đặt vấn đề
Trong khoảng một thập kỷ gần đây, Chính phủ đã ra một số quyết sách rất quan trọng về phát triển và bảo tồn văn hóa vùng dân tộc thiểu số. Trong những nỗ lực ấy, thấy nổi lên một loạt chính sách hỗ trợ phát triển và bảo tồn văn hóa đối với nhóm “các dân tộc thiểu số rất ít người” (DTRIN). Để làm cơ sở cho các quyết sách của Chính phủ, Uỷ ban Dân tộc (UBDT) cũng đã xây dựng một chương trình khoa học cấp nhà nước nhằm nghiên cứu “những vấn đề cơ bản và cấp bách về dân tộc thiểu số và chính sách dân tộc ở Việt Nam đến năm 2030”. Nghiên cứu danh mục các đề tài khoa học đã được phê duyệt, có thể thấy xu hướng chủ đạo của các đặt hàng từ UBDT là tìm kiếm giải pháp can thiệp vào phát triển từ bên ngoài để nâng cao đời sống kinh tế văn hóa cho các nhóm dân tộc rất ít người. Tuy nhiên, trong khi tìm kiếm giải pháp cho các tộc người, hướng tiếp cận nhân loại học/dân tộc học trong các nghiên cứu phát triển và bảo tồn văn hóa các tộc người lại dường như còn đang bị bỏ quên. Câu hỏi xưa cũ về chính sách phát triển ở vùng dân tộc lại đặt ra: Tìm kiếm giải pháp can thiệp từ bên ngoài cộng đồng hay sử dụng vốn văn hóa-xã hội và tri thức của chính các tộc người vào quá trình phát triển và bảo tồn văn hóa của họ?
Bài viết này, trên cơ sở khái niệm hóa thuật ngữ “các dân tộc thiểu số rất ít người” và phân tích hệ thống chính sách can thiệp phát triển đã được Chính phủ ban hành để đề xuất một hướng tiếp cận khác cho phát triển bền vững ở các DTRIN. Trong khi đi tìm giải pháp hỗ trợ phát triển DTRIN , câu hỏi nên được đặt ra là: (1) làm thế nào để các DTRIN có thể bảo vệ được bản sắc văn hóa và sử dụng vốn văn hóa của chính họ vào quá trình phát triển?; và (2) làm thế nào để nhận diện những yếu tố nguy cơ đe dọa phát triển bền vững và làm phai nhạt bản sắc văn hóa của các DTRIN? Với việc đặt câu hỏi theo hướng như vậy, bài viết mong muốn góp phần tìm kiếm giải pháp thay thế hiệu quả hơn cho phát triển bền vững và bảo tồn văn hóa các DTRIN.
2. Khái niệm dân tộc thiểu số rất ít người
Điều hiển nhiên khi nói đến “các dân tộc thiểu số rất ít người” chúng ta nghĩ ngay đến vấn đề dân số. Nghị định số 51/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc của chính phủ định nghĩa “dân tộc thiểu số rất ít người là dân tộc có số dân dưới 10.000 người.”[[2]] Dường như cho đến nay, các quyết sách về nhóm DTRIN đều dựa vào một tiêu chí duy nhất là dân số. Chúng ta xem tiêu chí này như một sự đương nhiên, và ít khi đặt ra câu hỏi như thế nào là một DTRIN?; nguồn thông tin từ các cuộc Tổng điều tra dân số có đủ tin cậy để xác định đó là dân tộc rất ít người?; cơ sở khoa học của việc hỗ trợ phát triển ở DTRIN là gì?; ngoài yêu tố dân số, còn cần những tiêu chí nào để xác định nhu cầu “cấp bách” của các dân tộc này để nhà nước hỗ trợ phát triển và bảo tồn văn hóa?
Mặc dù được vận động từ trước đó hàng chục năm nhưng mãi đến 2010-2011, một số chính sách đặc thù cho các DTRIN mới được Chính phủ phê duyệt, đánh dấu bằng việc Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 2023/QĐ-TTg phê duyệt đề án phát triển giáo dục ở các DTRIN giai đoạn 2010-2015. Tiếp theo là quyết định 1270/QĐ-TTg về bảo tồn và phát triển văn hóa DTTS và Quyết định 1672/QĐ-TTg năm 2011 phê duyệt đề án phát triển KT-XH ở nhóm 4 dân tộc Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao. Cùng với các chính sách về văn hóa giáo dục, và bài học từ đề án phát triển 4 dân tộc nói trên, năm 2016 Chính phủ tiếp tục ra quyết định số 2086/QĐ-TTg phê duyệt đề án hỗ trợ phát triển KT-XH ở các DTRIN. Một danh mục DTRIN đã được lập ra, bao gồm 16 nhóm dân tộc, thuộc về 6 nhóm ngôn ngữ khác nhau, cư trú ở 194 thôn bản thuộc 12 tỉnh, phần lớn phân bố ở khu vực miền núi phía bắc (12 dân tộc), bắc trung bộ (2 dân tộc) và tỉnh Kon Tum (2 dân tộc). Có thể nói, QĐ 2086 tập trung vào 16 DTRIN đã đánh dấu cho sự ra đời của một hệ thống chính sách dân tộc đặc thù bên cạnh các chính sách dân tộc chung, nhằm hỗ trợ phát triển và bảo tồn văn hóa các dân tộc có dân số dưới 10 ngàn người. Theo danh mục được UBDT công bố, các DTRIN bao gồm La Hủ, La Ha, Pà Thẻn, Lự, Ngái, Chứt, Lô Lô, Mảng, Cờ Lao, Bố Y, Cống, Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Brâu, Ơ Đu.[[3]]
Trước hết, chúng ta có thể nhận thấy việc lập danh mục các DTRIN mà chỉ căn cứ vào điều tra dân số của Tổng cục thống kê năm 2009 là không thuyết phục. Việc khai báo tộc danh trong điều tra dân số thường do các cán bộ địa phương và nhân viên điều tra không có kiến thức về tộc người hướng dẫn. Người dân cứ theo hướng dẫn mà kê khai tộc danh, thường dẫn đến sai sót rất lớn. Hầu hết các tộc người ở Việt Nam đều có nhiều tên gọi khác nhau, và các nhóm địa phương lại có tên những gọi riêng. Ngoài ra, tiêu chí dân số chưa chắc phản ánh tình trạng đói nghèo và đòi hỏi trợ giúp cấp bách. Tôi xin lấy một vài ví dụ cho thấy số liệu của các cuộc điều tra dân số để làm rõ nghi vấn về số liệu điều tra dân số có đáng tin cậy không.
Trường hợp người Tày Đà Bắc, cư trú ở huyện Đà Bắc (Hòa Bình) được các nhà nghiên cứu xác định là một nhóm địa phương của dân tộc Thái, nhưng khi được hỏi về tộc danh trong các cuộc điều tra dân số thì người dân vẫn kê khai theo tên gọi địa phương là người Tày, dẫn đến dân số của một nhóm địa phương thuộc dân tộc Thái lại được gộp vào dân số của dân tộc Tày là một tộc người khác.
Trường hợp nhóm Phù Lá ở huyện Bảo Thắng, Lào Cai lại gây ra một nhầm lẫn khác. Nhóm này được người địa phương gọi là người Hán (làng Hán). Khi làm các thủ tục giấy tờ và điều tra dân số, cán bộ địa phương hướng dẫn họ khai tộc danh là người Hoa. Khi chúng tôi đến thăm nhóm này tháng 7 năm 2018 thì nỗi bức xúc về vấn đề khai báo tộc danh được nêu ra rất gay gắt. Theo người dân, họ vốn là một nhóm người Phù Lá gốc ở Yên Bái di cư lên Lào Cai sau chiến tranh biên giới 1979. Nhóm này không còn nói tiếng mẹ đẻ mà sử dụng phương ngữ Vân Nam (Trung Quốc). Do đặc điểm này, các nhóm dân tộc khác ở địa phương đã gọi họ là người Hán, còn họ được cán bộ hướng dẫn kê khai là người Hoa trong khi thực tế nguồn gốc, đặc trưng văn hóa và ý thức tộc người đều khẳng định họ là người Phù Lá. Người dân muốn được kê khai mình là người Phù Lá. Việc định danh nhóm Phù Lá Hán thực sự cũng không cần thiết, lại dễ gây nhầm lẫn.
Trường hợp nhóm Xạ Phang có dân số khoảng 20 ngàn người, phân bố chủ yếu ở các tỉnh Lai Châu và Điện Biên khá đặc biệt. Cho đến nay chưa có bất kỳ mô tả dân tộc học nào nói đến nhóm dân tộc này nhưng trong đợt xác định thành phần tộc người từ 1973 xếp họ là một nhóm thuộc dân tộc Hoa. Từ năm 2017 đến nay, chúng tôi đã tiến hành nhiều đợt nghiên cứu thực địa ở nhóm người này. Theo giải thích của người dân địa phương, Xạ Phang là tên tự gọi, phát âm tiếng địa phương, có nghĩa là người miền thượng hay người cư trú ở vùng cao.[[4]] Phần đông các gia đình Xạ Phang đều có nguồn gốc từ Vân Nam di cư đến sang Việt Nam vào những thời điểm khác nhau, đã cách đây khoảng hơn 100 năm. Một bộ phận khác trong quá trình di cư từ Trung Quốc sang Việt Nam đã gia nhập vào nhóm Xạ Phang muộn hơn. Các cuộc điều tra dân số từ sau 1954 đến năm 2016, người dân đều khai vào mục dân tộc trong hồ sơ cá nhân là người Xạ Phang. Chứng minh nhân dân của họ cũng xác nhận điều này. Từ năm 2016, người ta phát hiện ra không có tên Xạ Phang trong danh mục các dân tộc ít người, cán bộ địa phương hướng dẫn họ khai tộc danh là người Hoa. Người dân rất hoang mang, bởi trong hồ sơ lý lịch, bố mẹ thuộc một tộc người, con cái sinh sau 2016 lại thuộc tộc người khác, gây khó khăn khi làm các thủ tục khai báo hồ sơ, bảo hiểm, nhập viện, đi học, tuyển dụng, v.v.
Trong điều kiện khai báo còn nhiều lỗ hổng và sơ xuất như vậy, làm sao chúng ta chỉ có thể dựa vào số liệu điều tra dân số của Tổng cục Thống kê để xác định DTRIN trong khi nguồn tài liệu này cứ mười năm mới điều tra một lần?
Thứ hai, hầu hết thông tin về tộc người và tộc danh mà chúng ta đang sử dụng hiện nay đều được hình thành từ những thập kỷ 60-70 của thế kỷ trước, và danh mục tộc người chính thức được định hình từ sau hội nghị quốc gia về xác định thành phần tộc người năm 1973, được nhà nước (Tổng cục Thống kê) công nhận vào năm 1979. Chúng ta có thể hình dung những năm 1960 và 1970, điều kiện đi lại và nghiên cứu thực địa lúc ấy rất khó khăn, nhiều cuộc điền dã chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, thông tin khoa học về các tộc người và tình hình đồng tộc của họ ngoài lãnh thổ Việt Nam đều rất mơ hồ. Từ đó đến nay đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhiều thông tin khoa học và lý luận về tộc người đã được cập nhật, ý thức về tộc người cũng đã có những thay đổi. Do xu hướng hội nhập gần đây, tình trạng hôn nhân ngoại tộc người đang diễn ra khá phổ biến, dẫn đến con cháu sinh ra từ các cặp vợ chồng hỗn hợp không biết mình thuộc về dân tộc nào.[[5]] Kết quả là cho đến nay, có tới 33 tộc người không thừa nhận tộc danh đã được nhà nước xác định, và kiến nghị xác minh lại (Lò Giàng Páo 2013).[[6]] Có những trường hợp xác định thành phần tộc người còn khiên cưỡng, do ảnh hưởng bởi những thiên kiến chính trị và hạn hẹp của tài liệu, dẫn đến thực tế là thông tin về tộc người bị hiểu méo mó và do đó, có ảnh hưởng đến việc xây dựng chính sách dân tộc, mà trong trường hợp chúng ta đang thảo luận ở đây là xác định DTRIN. Thậm chí ở nhiều tộc người, chúng ta không bám sát các tiêu chí xác định tộc người, bỏ rơi tiêu chí ngôn ngữ mẹ đẻ như một yếu tố thiết yếu trong phân định tộc người như trường hợp người Sán Chay, người Thổ, v.v... [[7]] Ở đây, tôi muốn lấy trường hợp dân tộc Ngái như một ví dụ điển hình của sự sai sót trong thành phần tộc người đã ảnh hưởng đến xác định nhóm các DTRIN như thế nào. Hiện tại, dân tộc Ngái được UBDT xác định là một trong 16 DTRIN với dân số chỉ hơn một ngàn người. Kết quả nghiên cứu gần đây đã cho thấy đây là một thông tin không đúng trên thực tế và người dân cũng không đồng tình (Masako ITO 2018). [[8]]
Ngược lại lịch sử trước 1979, người Ngái được xác định là một nhóm địa phương của dân tộc Hoa. Đến tháng 3/1979, Viện Dân tộc học xác định lại, công nhận Ngái là một tộc người riêng, khác Hoa. Tiếc là từ sau đó, không có một nghiên cứu khoa học nào về người Ngái được thực hiện. Các tài liệu trên cổng thông tin của Chính phủ, UBDT, và các cơ quan báo chí đều sử dụng thông tin đã có từ những năm 70 về người Ngái. Thậm chí gần đây có tờ báo còn tưởng tượng ra một tộc người huyền bí và nhỏ bé nhất Việt Nam để bày tỏ nỗi lo lắng cho tộc người này, với dân số ít hơn một ngàn người, sự suy thoái giống nòi của dân tộc Ngái là điều khó tránh! (Công lý & Xã hội, 2017).[[9]] Cũng cần nói thêm là công trình dân tộc học mới nhất do Viện Dân tộc học xuất bản vẫn tiếp tục sử dụng số liệu điều tra dân số 2009 cho rằng dân số Ngái chỉ có 1.035 người, thuộc nhóm DTRIN (Viện Dân tộc học, 2018) [[10]]
Trong khoảng từ 2014 đến nay, trên hành trình tìm lại các tộc người nói các phương ngữ Hoa/Hán, chúng tôi đã khảo sát người Ngái ở các khu vực Đầm Hà, Hà Cối và Móng Cái (Quảng Ninh), Lục Ngạn và Sơn Động (Bắc Giang), Đồng Hỷ và Phú Bình (Thái Nguyên), Quận 6 (TP Hồ Chí Minh), Định Quán và Trảng Bom (Đồng Nai), Bảo Lộc (Lâm Đồng) và phát hiện ra sự phân bố trên một không gian rộng lớn với dân số tập trung thành các cộng đồng dân cư Ngái đông đúc.[[11]] Dân số của các cộng đồng cư dân tự nhận mình là người Ngái ở Việt Nam vào khoảng trên dưới 100 ngàn người trong khi đồng tộc của họ ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và các nước Đông Nam Á khác ước tính khoảng 75 triệu người.[[12]] Các nhà dân tộc học ở Viện Dân tộc học xác nhận địa bàn sinh tụ chính của người Ngái ở Đồng Hỷ Thái Nguyên với gần 500 nhân khẩu, chiếm khoảng một nửa dân số Ngái trên toàn quốc (Viện Dân tộc học, 2018). Thực ra, mấy chục hộ gia đình Ngái ở Tam Thái (Đồng Hỷ) và Đồng Liên (Phú Bình), tỉnh Thái Nguyên chỉ là một bộ phận rất nhỏ người Ngái di cư từ Quảng Ninh lên khu vực Thái Nguyên trong những năm từ 1920 đến trước 1954 mà thôi. Ngoài ra, một nhóm hộ gia đình Ngái khác cũng di cư tiếp từ Thái Nguyên lên Bắc Cạn và hiện nay đã khai sang thành phần dân tộc khác. Một bộ phận lớn hơn (khoảng 60 ngàn người) đã di cư từ khu Nùng Tự trị (tỉnh Hải Ninh cũ, Quảng Ninh nay) vào Nam năm 1954, hiện đang định cư tại Quận 6 TP Hồ Chí Minh, huyện Định Quán, Trảng Bom, Long Khánh (Đồng Nai), Bảo Lộc, Di Linh (Lâm Đồng) và rải rác ở một số tỉnh miền Đông Nam bộ. Bộ phận còn lại có dân số khoảng 20 ngàn vẫn cư trú tại hai huyện Lục Ngạn và Sơn Động (Bắc Giang), được cán bộ địa phương hướng dẫn khai báo tộc danh là Hoa. Khảo sát của chúng tôi tại tất cả các điểm có mặt người Ngái cư trú nói trên, họ đều tự nhận mình là Ngái Va (người nói tiếng Ngái). Cần lưu ý thêm là trong các cộng đồng Ngái thường có một tỷ lệ đáng kể người nói tiếng Hakka (Khách) và Pạc Và (Sán Dìu, Sán Chỉ) vì các nhóm này đều có gốc gác di cư từ Quảng Đông. Riêng nhóm Khách, miền Bắc gọi là Hắc Cá, miền Nam gọi là Hẹ, đều sử dụng một ngôn ngữ chung là tiếng Hakka, nhưng có một số khác biệt trong cách phát âm (Fumei Hsu 2015).[13] Người dân địa phương giải thích tiếng Ngái có ảnh hưởng âm vị Quảng Tây trong khi nhóm Khách ảnh hưởng âm vị Quảng Đông. Cũng cần lưu ý thêm, ở Trung Quốc, các nhóm Ngái và Hakka được xếp vào dân tộc Hán (Nguyễn Văn Chính, 2018). [[14]]
Như tôi đã phân tích, việc dựa vào một tiêu chí duy nhất là dân số để đưa DTRIN vào đề án hỗ trợ phát triển là có vấn đề, cần được bổ sung thêm bằng các tiêu chí khác. Trên thực tế, UBDT cũng đã linh hoạt đưa trường hợp dân tộc Ngái, dù có dân số rất ít (theo điều tra dân số) ra khỏi danh sách hỗ trợ theo QĐ 2086 của Chính phủ do điều kiện kinh tế xã hội của nhóm này khá phát triển so với các nhóm khác, thay vào đó là dân tộc Phù Lá có dân số đông hơn 10 ngàn nhưng điều kiện kinh tế xã hội khó khăn hơn (UBDT, 2015).[[15]] Theo tôi, ngoài tiêu chí dân số, cần nghiên cứu cụ thể tình hình kinh tế xã hội các nhóm được cho là DTRIN, hoặc chí ít, tham khảo kết quả điều tra kinh tế xã hội 53 dân tộc do Tổng cục Thống kê thực hiện (2015). Ngoài đặc điểm của tình trạng đói nghèo, các dự án hỗ trợ của nhà nước, cần phân tích điều kiện cư trú, mức độ hội nhập vào thị trường và quốc gia dân tộc, tình trạng ngôn ngữ, văn hóa và sự phụ thuộc về mặt xã hội của DTRIN vào các nhóm dân tộc lớn hơn trong khu vực. Đây là những khía cạnh không thể bỏ qua khi xác định DTRIN và đưa ra giải pháp hỗ trợ và bảo tồn.
3. Chính sách hỗ trợ và bảo tồn văn hóa DTRIN
Trong phiên trả lời chất vấn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện chính sách đối với đồng bào DTTS ngày 13/8/2018, Bộ trưởng Đỗ Văn Chiến đã nêu ra ba giải pháp chính: (1) Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ bao gồm giao thông và thông tin kết nối với thị trường; (2) Phát triển nguồn nhân lực và giáo dục đào tạo ở vùng DTTS và miền núi; (3) Tạo nguồn sinh kế và ổn định dân cư. Ngoài ra, đào tạo nghề cho vùng DTTS và miền núi cũng được xem là một giải pháp hỗ trợ phát triển.[[16]]
Đối với nhóm DTRIN, một số đề án cụ thể đã được Chính phủ phê duyệt đưa vào thực hiện, trong đó đáng lưu ý là:
- Quyết định số 2123/QĐ ký ngày 22 tháng 11 năm 2010 Phê duyệt Đề án “Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010-2015”.
- Quyết định số 1270/QĐ-TTg ký ngày 27 tháng 7 năm 2011 Phê duyệt Đề án “Phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt nam đến năm 2020”.
- Quyết định số 1627/QĐ-TTg ký ngày 26 tháng 9 năm 2011 Phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc: Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao”.
- Quyết định số 2086/QĐ-TTg ký ngày 31 tháng 10 năm 2016 Phê duyệt Đề án “Hỗ trợ Phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2016-2025”.
Nghị định số 57/2017/NĐ-CP ký ngày 9 tháng 5 năm 2017 “Quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người”.
Phân tích các đề án hỗ trợ phát triển nói trên, có thể nhận thấy các dự án này chủ yếu nhằm đạt được mục tiêu cụ thể trong ngắn hạn, như đề án phát triển kinh tế xã hội ở vùng 4 DTRIN (QĐ 1267/2011), sau đó được mở rộng ra quy mô ở 16 DTRIN (QĐ 2086/QĐ-TTg/2016); có dự án nhắm vào một lĩnh vực cụ thể, quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ con em DTRIN thuộc các cơ sở giáo dục năm trong hệ thống giáo dục quốc dân (NĐ số 57/2017/NĐ-CP) trong khi đề án phát triển văn hóa DTTS thì những vấn đề hỗ trợ DTRIN được lồng ghép vào hoạt động chung ở vùng dân tộc.
Các dự án hỗ trợ phát triển DTRIN có đặc điểm chung là nhà nước cung cấp vốn đầu tư qua các nguồn kinh phí khác nhau (trung ương, các chương trình mục tiêu quốc gia, ngân sách địa phương) nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể trong một thời hạn nhất định, tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể:
- giảm tỷ lệ hộ nghèo,
- chống suy dinh dưỡng trẻ em,
- phát triển hạ tầng điện-đường-trường-trạm, nước sinh hoạt,
- khuyến nông khuyến lâm, khuyến công
- hỗ trợ phát triển sản xuất như giống và vật tư, phòng dịch bệnh
- hỗ trợ hộ gia đình xây dựng nhà ở,
- hỗ trợ xây dựng nhà cộng đồng thôn bản
- hỗ trợ lương thực hộ nghèo thiếu ăn
- xây dựng cơ sở chính trị cấp thôn bản,
- hỗ trợ bảo tồn phát huy giá trị văn hóa truyền thống
- nâng mức sống của DTRIN ngang tầm các dân tộc khác trong vùng
Các dự án này chủ yếu cung cấp vốn đầu tư và cứu trợ. Không thấy có triết lý phát triển bền vững vùng DTRIN làm cơ sở cho các giải pháp, cũng không thấy các giải pháp cụ thể và lực lượng thực thi đề án cụ thể nhằm đạt được mục tiêu. Trên thực tế, các đề án hỗ trợ phát triển này đều được thực hiện qua hệ thống hành chính quan liêu với bộ máy cồng kềnh, chậm chạp và hoạt động kém hiệu quả. Đề án phát triển DTRIN trên thực tế là cụ thể hóa các chính sách đặc thù, nhưng không có những giải pháp có tính đặc thù để đạt hiệu quả, ngược lại, vẫn thực hiện thông qua bộ máy hành chính các cấp địa phương, giống như mọi dự án thông thường khác.
Có thể nói việc hỗ trợ kinh phí với DTRIN là cần thiết và thể hiện sự quan tâm nhất quán phát triển vùng dân tộc của nhà nước, nhưng phương thức thực hiện như thế nào để đạt hiệu quả mới là quan trọng. Việc cung cấp kinh phí hỗ trợ hầu hết các mặt đời sống của DTRIN thông qua hệ thống hành chính cho thấy các đề án này đang có nguy cơ tạo ra sự phụ thuộc rất lớn vào sự can thiệp từ bên ngoài, tạo tâm lý chờ đợi hỗ trợ vào nhà nước và triệt tiêu động lực phát triển cũng như tri thức sinh tồn vốn là sức sống của các tộc người. Vai trò của DTRIN trong các đề án hỗ trợ phát triển rất mờ nhạt, trong khi vốn văn hóa-xã hội, trị thức địa phương, và tầm quan trọng của các thiết chế truyền thống trong thực thi các đề án này hầu như không thấy nói đến.
Cho đến nay có những đề án với kinh phí hàng ngàn tỷ đồng đã đi vào giai đoạn hai (như đề án hỗ trợ vùng 4 dân tộc), hoặc sắp hết thời hạn thực hiện (phát triển văn hóa vùng DTTS), nhưng không thấy có hoạt động đánh giá tác động giữa kỳ và sau khi hoàn thành dự án để rút ra bài bọc cho các đề án tiếp theo. Các hoạt động giám sát của Quốc hội hoặc kiểm tra giám sát của các cơ quan hành chính là cần thiết, nhưng không thay thế được hoạt động đánh giá đề án của các chuyên gia có chuyên môn về phát triển. [[17]]
Các đề án nghiêng về huy động nguồn vốn chính phủ để hỗ trợ sản xuất, quản lý xã hội và đảm bảo cuộc sống. Chưa có đề án chuyên đề nào nhằm bảo tồn ngôn ngữ và văn hóa DTRIN. Lĩnh vực văn hóa-ngôn ngữ nói chung thường chỉ được thêm vào hoặc lồng ghép với các đề án phát triển kinh tế xã hội trong khi sự tình trạng mai một ngôn ngữ các nhóm DTRIN đã trở nên nghiêm trọng, trong đó một số ngôn ngữ của các nhóm Ơ đu, Phù Lá đã hầu như không còn có thể cứu vãn.[18]
Đánh giá hiệu quả và tác động của các dự án phát triển và an sinh xã hội vùng DTTS, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao động) đưa ra một số nhận định sơ bộ như sau:
- Có quá nhiều chính sách, chồng chéo về nội dung, trùng lặp về địa bàn và đối tượng thụ hưởng, làm nảy sinh thực tế là trong cùng một địa bàn và đối tượng thụ hưởng nhưng mức hỗ trợ một số chính sách khác nhau gây khó khăn trong thực hiện và đánh giá hiệu quả (như chính sách vay vốn phát triển sản xuất, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ giáo dục…).
- Các chính sách hỗ trợ chỉ giải quyết tình thế, chưa phải là đầu tư phát triển để khai thác các thế mạnh vùng DTTS và miền núi. Chưa có chính sách khuyến khích đồng bào DTTS vươn lên thoát nghèo bền vững, còn một số chính sách nặng về cho không. Các chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho đồng bào DTTS nghèo mới chỉ tính đến việc hỗ trợ ngắn hạn như: hỗ trợ cấp đất ở và đất sản xuất, hỗ trợ cấp kinh phí xây dựng và sửa chữa nhà cửa, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng… mà chưa tính đến những hỗ trợ lâu dài để người dân có thể ổn định đời sống như: khuyến nông, thông tin thị trường.
- Các can thiệp hỗ trợ an sinh cho đồng bào DTTS chưa thể hiện sự khác biệt giữa các nhóm DTTS, nhiều chính sách chưa phù hợp với đặc điểm của DTTS. Chính sách về hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào DTTS không phát huy được hiệu quả do chưa xem xét đầy đủ trình độ phát triển, đặc điểm sinh kế, cư trú, quản lý đất đai giữa các nhóm dân tộc cũng như giữa các dân tộc sống ở các vùng miền khác nhau. Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn một số quy định, định mức về hỗ trợ (tiền ăn, đi lại…) chưa phù hợp với vùng miền núi địa bàn rộng, xa xôi, đi lại khó khăn. Nội dung, chương trình đào tạo nghề còn nặng về lý thuyết, chưa thực sự phù hợp với trình độ nhận thức của lao động DTTS;
- Chính sách hỗ trợ sản xuất từ khâu tập huấn, đến xây dựng mô hình, hỗ trợ giống, phân bón, thuốc trừ sâu hầu hết đều chưa phù hợp với trình độ dân trí và điều kiện tự nhiên vùng DTTS;
- Chính sách cấp không thu tiền ấn phẩm báo chí, tuyên truyền chưa hài hòa về số lượng tin, bài tuyên truyền giữa các vùng miền, các dân tộc. Có những DTRIN chưa có bài giới thiệu trên mặt báo. Ngôn ngữ, hình ảnh đôi khi chưa phù hợp với trình độ, phong tục tập quán của nhân dân, nhất là chưa tạo được thông tin hai chiều để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đồng bào DTTS. [[19]]
Bên cạnh những hạn chế của các dự án phát triển vùng DTTS như vừa nêu, cho đến nay chúng ta chủ yếu mới làm việc với các DTTS thông qua các nghị định, thông tư, quyết định; chỉ mới chú ý đến “hỗ trợ” DTTS như một hình thức ban phát ân huệ có tính đạo đức. Cần thiết phải xây dựng một đạo luật về DTTS trong đó quy định các quyền về phát triển và bảo tồn bản sắc văn hóa và ngôn ngữ của họ, trong đó có DTRIN. Chính phủ đã khởi động dự án luật các dân tộc từ lâu nhưng đến nay vẫn dậm chân tại chỗ. Chúng tôi cho rằng một bộ luật dân tộc chính thức và toàn diện nhằm cụ thể hóa các quyền của đồng bào dân tộc thiểu số như được Quy định trong Hiến Pháp 2013 sẽ là một giải pháp căn cơ, lâu dài và bền vững làm chỗ dựa cho các quyết sách phát triển vùng DTTS và DTRIN ở Việt Nam.[[20]]
4. Đặc điểm đói nghèo và giải pháp phát triển bền vững ở DTRIN
Hầu hết DTRIN ở Việt Nam được xem là các nhóm địa phương của một dân tộc lớn hơn có địa bàn sinh tồn xuyên biên giới giữa vùng núi Đông Nam Á và Tây Nam Trung Quốc. Chẳng hạn, các nhóm nhỏ như Cống và Si La nói ngôn ngữ Tạng Miến, sinh sống dọc biên giới giữa các tỉnh Lai Châu và Điện Biên (Việt Nam) với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) được Trung Quốc xác định là các nhóm địa phương của dân tộc Hà Nhì. Người Phù Lá ở Việt Nam được xem là một tộc người riêng trong khi ở Trung Quốc được xác định là những nhóm địa phương thuộc dân tộc Di. Tương tự như vậy, đồng tộc của người Lự Việt Nam được các nhà dân tộc học Trung Quốc xác định là một bộ phận của dân tộc Thái (Tai Lự); người Mảng Ư ở Lai Châu thuộc về một dân tộc lớn hơn có tên gọi Wa (dân tộc Ngõa), nói ngôn ngữ Mon-Khmer, phân bố ở Bắc Myanmar và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Một số nhóm tộc người có dân số nhỏ dưới 10 ngàn người như La Chí và La Ha, (nhóm ngôn ngữ Ka-đai) cũng không được Trung Quốc xác định là một dân tộc riêng. [[21]] Các nhóm tộc người này, trong quá trình di cư tới Việt Nam, do điều kiện sống biệt lập ở vùng sâu trong núi, lại bị tách khỏi dân tộc gốc trong một thời gian dài, chỉ còn ý thức về nhóm nhỏ của những người đồng tộc đã cùng nhau di chuyển vào Việt Nam.
Thực ra, cho đến đến nay, hiểu biết của giới dân tộc học về các nhóm DTRIN còn rất hạn chế. Các mô tả dân tộc học không chỉ hiếm hoi, mà chủ yếu đi theo hướng tiếp cận cũ đã được xác lập từ những năm 1960-70. Tuy nhiên, việc đề xuất chính sách đặc thù đối với DTRIN là cần thiết và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điều cần lưu ý trong quá trình can thiệp vào phát triển ở các nhóm này là cần phải tính đến những đặc điểm văn hóa, kinh tế, xã hội và tình trạng đói nghèo rất riêng của các nhóm này, nếu không sẽ khó gặt hái được thành công, thậm chí có thể đưa lại những hậu quả tiêu cực cho phát triển trong tương lai, bởi các DTRIN, dù sinh sống trong các cộng đồng dân cư nhỏ bé và biệt lập, đều có những đặc điểm riêng về lịch sử, kinh tế, văn hóa và xã hội. Các đề án can thiệp vào phát triển ở DTRIN trong thời gian qua, dù rất tốt từ quan điểm, nhưng chưa dựa vào những phân tích thấu đáo về các đặc điểm riêng và tình trạng đói nghèo của mỗi dân tộc để làm cơ sở cho việc vận dụng chính sách hỗ trợ phát phát triển của nhà nước một cách thích hợp vào từng tộc người cụ thể.
Năm 2001, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm của tình trạng đói nghèo ở một số nhóm các DTRIN vùng núi Tây Bắc Việt Nam và đã rút ra tám đặc điểm lớn của các nhóm này, bao gồm: (1) Tình trạng bất lợi do địa bàn cư trú biệt lập về địa lý; (2) Các nguồn lực phát triển rất hạn chế trong một môi trường sinh thái tự nhiên đang bị hủy hoại; (3) Thiếu đất canh tác và áp lực thường xuyên của tình trạng thiếu ăn; (4) Nền kinh tế tự cấp, đơn điệu và phụ thuộc vào nguồn tài nguyên tự nhiên trong vùng; (5) Cộng đồng dân cư nhỏ bé, hầu hết trong tình trạng phụ thuộc về mặt xã hội vào các nhóm dân tộc lớn hơn trong vùng; (6) Tình trạng phai nhạt của tri thức địa phương; (7) Bản sắc văn hóa và ngôn ngữ riêng đang đối diện nguy cơ biến mất trong khi tình trạng bị dán nhãn “lười”, “dốt” và “lạc hậu” gia tăng; (8) Khả năng hội nhập vào kinh tế thị trường thấp và có xu hướng phụ thuộc vào các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài tăng lên sau mỗi dự án phát triển (Nguyễn Văn Chính & Dương Bích Hạnh, 2001). [[22]]
Do tình trạng dễ bị tổn thương và chịu nhiều áp lực ở các DTRIN như đã phân tích ở trên, chúng tôi đã khuyến cáo ba nguyên tắc quan trọng cho các dự án can thiệp vào phát triển ở các DTRIN: (1) Tôn trọng tuyệt đối và không phá vỡ cấu trúc kinh tế-xã hội của các DTRIN nhằm bảo tồn các bản sắc văn hóa độc đáo riêng của họ; (2) Khai thác và sử dụng tri thức địa phương của các DTRIN vào các chương trình phát triển thay vì tạo ra một môi trường kinh tế-xã hội mới làm mất tri thức địa phương đã được tích lũy từ trong lịch sử của tộc người; (3) Các dự án phát triển cần đặc biệt lưu ý tình trạng dễ bị tổn thương của các DTRIN thay vì chỉ chú trọng vào phát triển kinh tế trong khi bỏ qua những đặc điểm văn hóa xã hội truyền thống và ngôn ngữ mẹ đẻ như hiện nay.
Trên cơ sở phân tích tình trạng đói nghèo, những thành công và chưa thành công của các dự án phát triển nhằm tìm kiếm giải pháp phát triển bền vững cho các DTRIN, tôi cho rằng vận dụng các quan điểm tiếp cận dân tộc học theo hướng phù hợp văn hóa vào các dự án can thiệp phát triển ở các DTRIN là một hướng đi có thể tạo ra những đột phá cho phát triển bền vững kết hợp với bảo tồn văn hóa. Quan điểm này gợi ý rằng cần thiết phải tìm hiểu tri thức, tập quán và quan điểm của người dân địa phương để từ đó tìm kiếm giải pháp cho vấn đề tiếp cận, sử dụng và quản lý đất đai, phát triển kinh tế thay vì áp đặt một mô hình cho tất cả, dễ tạo ra hiểu lầm và xung đột.
Cho đến nay, các nghiên cứu phát triển ở Việt Nam đều có chung một nhận xét cho rằng tăng trưởng kinh tế ở nước ta chưa bền vững. Đang xảy ra những xung đột mạnh mẽ giữa phát triển và bảo tồn văn hóa trong khi đối thoại và tôn trọng sự đa dạng văn hóa đang gặp phải thách thức lớn do phương thức phát triển nặng về khai thác phục vụ lợi ích các nhóm thay vì phát triển bền vững và bao trùm. Câu hỏi cần thiết phải đặt ra trong các chương trình, dự án phát triển là chúng ta phát triển cho ai? Nếu chúng ta đặt vấn đề phát triển là vì người dân, cho người dân thì sự tham gia của họ vào quá trình xây dựng chính sách và thực thi các chương trình phát triển của nhà nước có ý nghĩa then chốt. Nên trao cho các DTRIN quyền được tham góp vào quá trình phát triển vì chính dân tộc họ và biến văn hóa của họ thành “động lực” thúc đẩy phát triển.[[23]]
Khi nói đến phù hợp văn hóa là chúng ta nói đến việc chấp nhận hoặc sử dụng sử dụng các ý tưởng, các biểu tượng, hoặc các khía cạnh văn hóa vật thể và phi vật thể khác mà một nền văn hóa tạo ra. Phù hợp văn hóa không có ngụ ý chỉ tập trung vào những yếu tố có tính “cổ truyền” mà đặt văn hóa trong một bối cảnh rộng hơn để hiểu được những năng động và đa dạng của văn hóa để đảm bảo không áp đặt.
Điểm mấu chốt của tiếp cận nhân học trong phát triển bền vững là có sự tham gia của tất cả các bên trong tất cả các giai đoạn phát triển, từ lập kế hoạch, triển khai thực hiện, phân tích và đánh giá, trên cơ sở thừa nhận sự khác biệt và đa dạng văn hóa, xem đa dạng văn hóa như một nguồn lực của phát triển, dựa vào quan điểm từ bên trong của cộng đồng thay vì áp đặt cái nhìn từ bên ngoài. Tiếp cận nhân học trong phát triển, do đó là hướng đến cộng đồng, tìm kiếm những hiểu biết đầy đủ về người dân và sử dụng tri thức và thông tin của chính họ vào các chương trình phát triển để đạt được hiệu quả cao nhất. Những người làm công tác phát triển ở DTRIN cần có quan điểm nhất quán trong tiếp cận nhân học là Lắng nghe, Quan sát, Cùng tham gia (trò chuyện, chia sẻ, làm việc), và Hợp tác với các nhóm vì mục tiêu phát triển của cộng đồng. Ba vấn đề cốt yếu trong tiếp cận phát triển bền vững từ quan điểm phù hợp văn hóa là:
(1) Đa dạng quan điểm phát triển
(2) Tiếp cận và tham gia vào quá trình phát triển
(3) Khai thác và sử dụng các nguồn lực văn hóa vào phát triển
Trước hết, khái niệm về đa dạng quan điểm nói tới ở đây là đa dạng về mục tiêu phát triển. Cần lưu ý rằng nhu cầu phát triển của mỗi cộng đồng đôi khi không giống như cách nghĩ của người ngoài. Cách nhìn nhận và tư duy của cộng đồng thường gắn chặt với văn hóa của họ, do đó quan điểm của cộng đồng về các vấn đề phát triển sẽ không thể tách rời với hệ thống giá trị của họ. Một số dự án phát triển do chính phủ tiến hành trên thực tế đã vận dụng quan điểm này vào việc xây dựng mô hình người dân tự lập kế hoạch trong đó họ được quyền tự quyết các vấn đề phát triển gắn bó mật thiết nhất với đời sống của họ thông qua các cuộc thảo luận và chia sẻ trong nhóm hoặc trong cộng đồng.[[24]] Cách tiếp cận phù hợp văn hóa có hai ưu điểm lớn. Thứ nhất nó đảm bảo kế hoạch phát triển cộng đồng gắn liền với nhu cầu thực tế của địa phương. Thứ hai, nó cho phép người dân tự xác định được phương hướng và kế hoạch hành động để cùng giải quyết vấn đề của chính họ.
Về khái niệm tiếp cận và tham gia: Tiếp cận phù hợp văn hóa thực chất là một quá trình làm cho người dân và các cộng đồng được chủ động tham gia vào việc tìm kiếm và xác định các nguồn lực của mình, niềm tin, lối nghĩ, và ý nghĩa của kế hoạch mà họ đã cùng nhau lập ra, và cùng nhau thực hiện. Như vậy, tiếp cận và tham gia có nghĩa là các chương trình và chính sách phát triển cần thiết phải để người dân địa phương có khả năng tiếp cận vấn đề và sự tham gia trong mọi khâu của quá trình xây dựng, triển khai và đánh giá chương trình phát triển của chính họ.
Tiếp cận và tham gia vào các chương trình phát triển sẽ hiệu quả hơn nếu người dân tự phân tích và chỉ ra được những yếu tố văn hóa nào đã hạn chế sự tham gia của họ và làm thế nào để đảm bảo sự tham gia của họ vào quá trình quyết định.
Cuối cùng, vấn đề tận dụng nguồn lực văn hóa địa phương cho mục tiêu phát triển. Tri thức địa phương được tích lũy từ thế hệ này qua thế hệ khác, giúp con người khai thác hệ tự nhiên để sinh sống; nó cũng là thành tố tạo nên bản sắc địa phương. Tận dụng tri thức địa phương vào quá trình phát triển chính là sự kết hợp và tạo ra sự hài hòa giữa phát triển và bảo tồn. Khi xây dựng chiến lược can thiệp vào phát triển, người lập kế hoạch cần phải xác định và tận dụng năng lực sáng tạo của người dân địa phương bởi năng lực sáng tạo của họ chính là một nguồn lực vô tận cho phát triển. Trong khi sử dụng và phát huy nguồn lực cộng đồng tại chỗ, người lập dự án cần đặc biệt lưu ý vai trò của những người có uy tín trong cộng đồng. Chính họ sẽ là người hỗ trợ cho cộng đồng đạt được sự đồng thuận. Bằng uy tín của mình, những người này được dân tin tưởng và nghe theo.
Một vấn đề quan trọng trong phát triển bền vững là khai thác và sử dụng vốn xã hội vào quá trình xây dựng và thực thi các dự án phát triển. Vốn xã hội là một trong những nguồn lực văn hóa quan trọng ảnh hưởng đến khả năng thúc đẩy hợp tác và huy động các nguồn lực để phát triển. Vốn xã hội nói tới ở đây bao gồm mạng lưới xã hội, hệ giá trị và các quy tắc ứng xử, là một bộ phận cấu thành nên bối cảnh văn hóa của một chương trình phát triển có thể tạo điều kiện cho sáng tạo và thay đổi. Nhà kinh tế học Trần Hữu Dũng đã viết trên Tạp chí Tia Sáng (25/9/2014) rằng vốn văn hóa có liên hệ chặt chẽ với kinh tế và phát triển. Theo ông, giá trị kinh tế có thể tăng lên nhờ giá trị văn hóa, đồng thời vốn văn hóa giúp ta hiểu sâu hơn về ý niệm tính bền vững của phát triển. Đóng góp của văn hóa vào khả năng phát triển dài hạn không khác gì đóng góp của các loại vốn từ thiên nhiên. [[25]]
Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng đã có một sự gặp gỡ và gắn bó giữa quan điểm nhân học về phát triển bền vững và tư tưởng chính sách nhất quán của Đảng được Chính phủ cụ thể hóa trong QĐ 581/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 về “Chiến lược Phát triển Văn hóa đến năm 2020”[[26]]. Các nghị quyết về văn hóa của Đảng rất gần gũi với quan điểm phát triển của Liên hợp quốc được trình bày trong chiến lược phát triển bền vững của UNESCO The 2030 Agenda for Sustainable Development [[27] bởi cả hai đều xem văn hoá không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là động lực phát triển kinh tế - xã hội bền vững và đặt văn hóa vào vị trí trung tâm và tham gia đầy đủ vào nền kinh tế, xã hội và môi trường.
5. Kết luận
Các dự án và chương trình hỗ trợ phát triển ở các DTRIN là một nỗ lực đáng ghi nhận của Chính phủ trong chiến lược phát triển bền vững và bao trùm để không bỏ rơi các nhóm dân tộc nhỏ dễ bị tổn thương và thường gặp phải những bất lợi trong phát triển. Tuy nhiên, điểm yếu của các dự án phát triển này là vẫn chưa tìm ra được phương pháp tiếp cận thích hợp. Hệ thống hành chính địa phương không phải là một cơ quan phát triển chuyên nghiệp. Giao cho họ thực hiện các dự án phát triển ở các tộc người nhỏ bé, mong manh, dễ vỡ là một bất cập cần sớm được khắc phục bằng một cơ chế mới thích hợp hơn.
Phương pháp tiếp cận phù hợp văn hóa có thể được xem là một giải pháp khả thi nhất bởi nó nhấn mạnh tầm quan trọng của vốn văn hóa và vai trò chủ thể của người dân, tìm kiếm và sử dụng vốn văn hóa của địa phương vào trong các chương trình phát triển để đạt được hiệu quả. Điểm cốt lõi của cách tiếp cận phát triển này là xây dựng tinh thần cộng đồng và tính chủ động của người dân. Mọi chương trình và mục tiêu phát triển, từ sinh kế đến giáo dục, đều lấy cộng đồng làm chủ thể và là trung tâm của quá trình phát triển, do đó kết hợp được phát triển với bảo tồn hiệu quả bản sắc văn hóa tộc người.
Tuy nhiên, thực hành phát triển bền vững và bao trùm ở DTRIN là một công việc vô cùng khó khăn, đòi hỏi nỗ lực không mệt mỏi của những con người và tập thể có tình yêu, lòng đam mê và sự hy sinh vì phát triển bền vững của đất nước. Phải xem cách làm phát triển ở DTRIN cũng gian nan và cần độ kiên nhẫn và tri thức như những người truyền đạo trong lịch sử. Cần có một cơ chế để tạo ra một đội ngũ những người làm công tác phát triển chuyên nghiệp ở vùng dân tộc và đặc biệt là ở DTRIN với tinh thần dấn thân vì tương lai vững bền của đất nước và các dân tộc.
Tài liệu tham khảo
1. Asian Development Bank (2001), “Central Region Livelihood Improvement Project.
2. Completion Report (Báo cáo đánh giá tác động dự án giảm nghèo ở 6 tỉnh miền trung). Unpublished Report. Hà Nội.
3. Chính phủ (2011), Nghị định số 05/2011/NĐ-CP Về Công Tác Dân Tộc, ký ngày 14 tháng 1 năm 2011.
4. Công lý và Xã hội (2017), “Bí ẩn về tộc người nhỏ bé nhất Việt Nam”. Báo Công lý và Xã hội, ngày 13/10/2017.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), “Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII, ngày 16/7/1998. In trong: Văn kiện Đảng về phát triển kinh tế xã hội từ đổi mới (1986) đến nay. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Encyclopedia (2018), “Hakka”. Ethnonym: Haknyin, K’e-chia, Kejia, Keren, Lairen, Ngai, Xinren. Nguồn: Từ điển Back Khoa [https://www.encyclopedia.com/literature-and-arts/language-linguistics-and-literary-terms/language-and-linguistics/hakka], truy cập 4/11/2018.
7. Hoài Thu (2017), “Nguồn gốc của người Xạ Phang”. VOV4, http://vov4.vov.vn/TV/chuyen- muc/nguon-goc-cua-nguoi-xa-phang-c1201-126196.aspx, Cập nhật ngày: 20/2/2017.
8. HSU Fumei (2015) Tiếp xúc ngôn ngữ và biến đổi ngôn ngữ: Trường hợp tiếng Ngái ở Đồng Nai. Viện Ngôn ngữ học (biên tập), Ngôn ngữ học Việt nam 30 năm đổi mới và phát triển. NXb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015: 824-835.
9. Masako ITO (2018) “We Are Not the Hoa”: Vietnamese State Policies towards the ‘Chinese’ in Vietnam and the Modern History of the Ngai Living in Northern Rural Areas. Asian and African Area Studies, 17(2), 2018:258-286
10. Lò Giàng Páo (2013), “Cơ cấu dân số và thành phần dân tộc thiểu số ở nước ta qua ba thời kỳ điều tra”. Báo cáo khoa học, Hội nghị Thông báo Dân tộc học 2013, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
11. Nghị định số 57/2017/NĐ-CP ký ngày 9 tháng 5 năm 2017 “Quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người”.
12. Nghị định số 57/2017/NĐ-CP ký ngày 9 tháng 5 năm 2017 “Quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người”.
13. Nguyễn Bích Ngọc - Đặng Đỗ Quyên (2015), “Đánh giá thực trạng chính sách an sinh xã hội đối với dân tộc thiểu số ở Việt Nam”. Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Bộ Lao động TB&XH. http://ilssa.org.vn/vi/news/danh-gia-thuc-trang-chinh-sach-an-sinh-xa-hoi-doi-voi-dan-toc-thieu-so-o-viet-nam-93 (truy cập ngày 16/7/2018).
14. Nguyễn Văn Chính (2018), “Các cộng đồng cư dân xuyên biên giới Việt-Trung, bản sắc văn hóa và thành phần tộc người”. Tạp chí Khoa học Xã hội, VNU Hà Nội, số 4/2018.
15. Nguyễn Văn Chính (2018), “Memories, Migration and Ambiguity of Ethnic Identity: The Cases of Ngai, Nung and Khach in Vietnam”. Asian and African Area Studies, 17 (2), 2018: 207-226.
16. Nguyễn Văn Chính (2016), “Lý thuyết về tộc người và những thách thức mới trong nghiên cứu tộc người ở Việt Nam”. Tạp chí Dân tộc học, số 1& 2, tr. 131-146.
17. Nguyễn Văn Chính (2015), “Các cộng đồng cư dân xuyên biên giới Việt-Trung”. Kỷ yếu Diễn đàn phát triển xã hội lưu vực sông Hồng Việt – Trung lần thứ V. Học viện Hồng Hà, Vân Nam, Trung Quốc, 14 Nov. 2015.
18. Nguyễn Văn Chính, Dương Bích Hạnh (2001), Charateristics of poverty among the small ethnic groups in the northern mountain region of Vietnam. DFID Vietnam: Hanoi.
19. Nguyễn Văn Lợi (2002), Kỷ yếu Hội thảo bàn về tiêu chí xác định lại thành phần một số dân tộc ở Việt Nam. Viện Dân tộc học - Viện Ngôn ngữ học.
20. Nhân Dân (2014), “Quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt nam thể hiện trong Hiến pháp sửa đổi”. Báo Nhân Dân ngày 7/4/2014.
21. Quyết định số 2123/QĐ ký ngày 22 tháng 11 năm 2010 Phê duyệt Đề án “Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010-2015”.
22. Quyết định số 1270/QĐ-TTg ký ngày 27 tháng 7 năm 2011 Phê duyệt Đề án “Phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt nam đến năm 2020”.
23. Quyết định số 1627/QĐ-TTg ký ngày 26 tháng 9 năm 2011 Phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc: Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao”.
24. Quyết định số 2086/QĐ-TTg ký ngày 31 tháng 10 năm 2016 Phê duyệt Đề án “Hỗ trợ Phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2016-2025”.
25. Thành ủy TP Hồ Chí Minh (2018), Ủy ban Thường vụ Quốc hội chất vấn về việc thực hiện các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số. https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/uy-ban-thuong-vu-quoc-hoi-chat-van-ve-viec-thuc-hien-cac-chinh-sach-doi-voi-dong-bao-dan-toc-thieu-s-1491847188. Truy cập 13/8/2018.
26. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 phê duyệt đề án phát triển văn hóa đến năm 2020.
27. Trần Hữu Dũng (2014), “Phát triển bền vững” nhìn từ góc độ xã hội và văn hóa. Tia Sáng 25/9/2014.
28. UNESCO (2018) “2030 Agenda for Sustainable Development”
http://unesdoc.unesco.org/images/0026/002646/264687e.pdf. Truy cập 4/10/2018
29. Ủy ban Dân tộc (2015), Công văn số 1208/UBDT gửi Bộ Truyền thông ngày 30/10/2015.
30. Vi Hợi (2014), “Người Ơ Đu ở Tương Dương”. Văn hóa Nghệ An, ngày 17 tháng 1 năm 2014.
31. Viện Dân tộc học (2018), “Dân tộc Ngái”. In trong: Các dân tộc ở Việt Nam, tập 4. Nhóm ngôn ngữ Hán và Mã Lai Đa đảo. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội.
[1] Trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, VNU Hà Nội. Bài viết xuất bản trong kỷ yếu Dân tộc học 2018 của Viện Dân tộc học.
[2] Khoản 5 điều 4 của Nghị định số 05/2011/NĐ-CP Về Công Tác Dân Tộc, ký ngày 14 tháng 1 năm 2011.
[3] Ủy ban Dân tộc (2015), Công văn số 1208/UBDT-DTTS ký ngày 30/10/2015 gửi Bộ Thông tin & Truyền thông cho biết trong danh sách 16 DTRIN, có dân tộc Ngái dân số hơn một ngàn người nhưng khá phát triển nên không đưa vào đề án hỗ trợ phát triển, thay vào đó là dân tộc Phù Lá có dân số 10,944 người.
[4] Ông Đinh Hồng Vận, nguyên Vụ trưởng phụ trách người Hoa ở UBDT, dựa vào những dữ liệu ngôn ngữ và địa lý, nhận xét về Xạ Phang như sau: "Về cái tên Xạ Phang, bây giờ cũng chưa có tài liệu nào nghiên cứu, nhưng mà chúng tôi tìm hiểu người ta nói đây là dân tộc thiểu số ở bên Trung Quốc. Họ cũng không phải là một dân tộc của Trung Quốc mà chỉ là một nhóm tộc người ở Trung Quốc di cư sang Việt Nam. Cái chữ Xạ Phang là đọc chệch chữ Hạ Phương, tức là người ở vùng phía Nam, họ tự nhận là người Hạ phương từ Trung Quốc sang Việt Nam". In trong: Hoài Thu, 2017. “Nguồn gốc của người Xạ Phang”. VOV4, http://vov4.vov.vn/TV/chuyen-muc/nguon-goc-cua-nguoi-xa-phang-c1201-126196.aspx, Cập nhật ngày: 20/2/2017.
[5] Nguyễn Văn Chính (2016), Lý thuyết về tộc người và những thách thức mới trong nghiên cứu tộc người ở Việt Nam. Tạp chí Dân tộc học, sô 1& 2, tr. 131-146.
[6] Lò Giàng Páo (2013), Cơ cấu dân số và thành phần dân tộc thiểu số ở nước ta qua ba thời kỳ điều tra. Báo cáo khoa học, Hội nghị Thông báo Dân tộc học 2013, Viện Dân tộc học, Hà Nội.
[7] Nguyễn Văn Lợi (2002), Kỷ yếu Hội thảo bàn về tiêu chí xác định lại thành phần một số dân tộc ở Việt Nam. Viện Dân tộc học - Viện Ngôn ngữ học.
[8] Masako ITO (2018) “We Are Not the Hoa”: Vietnamese State Policies towards the ‘Chinese’ in
Vietnam and the Modern History of the Ngai Living in Northern Rural Areas. Asian and African Area Studies, 17(2), 2018:258-286.
[9] “Bí ẩn về tộc người nhỏ bé nhất Việt Nam”. Báo Công lý và Xã hội, ngày 13/10/2017.
[10] Viện Dân tộc học (2018), “Dân tộc Ngái”. Các dân tộc ở Việt Nam, tập 4. Nhóm ngôn ngữ Hán và Mã Lai Đa đảo. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 90.
[11] Memories, Migration and Ambiguity of Ethnic Identity: The Cases of Ngai, Nung and Khach in Vietnam. Asian and African Area Studies, 17 (2), 2018: 207-226.
[12] “Hakka”. Ethnonym: Haknyin, K’e-chia, Kejia, Keren, Lairen, Ngai, Xinren. Nguồn: Từ điển Bách Khoa [https://www.encyclopedia.com/literature-and-arts/language-linguistics-and-literary-terms/language-and-linguistics/hakka], truy cập 4/11/2018.
[13] HSU Fumei (2015) Tiếp xúc ngôn ngữ và biến đổi ngôn ngữ: Trường hợp tiếng Ngái ở Đồng Nai. Viện Ngôn ngữ học (biên tập), Ngôn ngữ học Việt nam 30 năm đổi mới và phát triển. NXb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015: 824-835.
[14] Nguyễn Văn Chính (2018), “Các cộng đồng cư dân xuyên biên giới Việt-Trung, bản sắc văn hóa và thành phần tộc người”. Tạp chí Khoa học Xã hội .VNU Hà nội, số 4/2018.
[15] Ủy ban Dân tộc (2015), Công văn số 1208/UBDT ngày 30/10/2015.
[16] Thành ủy TP Hồ Chí Minh (2018), Ủy ban Thường vụ Quốc hội chất vấn về việc thực hiện các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số. https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/uy-ban-thuong-vu-quoc-hoi-chat-van-ve-viec-thuc-hien-cac-chinh-sach-doi-voi-dong-bao-dan-toc-thieu-s-1491847188. Truy cập 13/8/2018.
[17] Các đề án hỗ trợ phát triển vùng DTTS & miền núi thường có tổng số vốn hỗ trợ lên đến hàng ngàn tỷ đồng, nhưng việc cấp vốn cho các dự án này thường gặp khó khăn về huy động tiền. Theo UBDT, vốn để thực hiện chính sách theo QĐ 2085 đã gần hết thời hiệu thực hiện nhưng vẫn chưa có tiền. Các địa phương đã được phê duyệt đề án thực hiện nhưng vẫn phải ngồi chờ… vốn! Xem: Sỹ Hào, 2018. “Bố trí vốn thực hiện Quyết định 2085/QĐ-TTg: Chờ đến bao giờ?”. Báo Dân tộc và Miền núi, ngày 8 tháng 6 năm 2018.
[18] Vi Hợi (2014), “Người Ơ Đu ở Tương Dương”. Văn hóa Nghệ An, ngày 17 tháng 1 năm 2014.
[19] Nguyễn Bích Ngọc - Đặng Đỗ Quyên (2015), “Đánh giá thực trạng chính sách an sinh xã hội đối với dân tộc thiểu số ở Việt Nam”. Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Bộ Lao động TB&XH. http://ilssa.org.vn/vi/news/danh-gia-thuc-trang-chinh-sach-an-sinh-xa-hoi-doi-voi-dan-toc-thieu-so-o-viet-nam-93 (truy cập ngày 16/7/2018).
[20] Nhân Dân (2014), “Quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt nam thể hiện trong Hiến pháp sửa đổi”. Báo Nhân Dân ngày 7/4/2014.
[21] Nguyễn Văn Chính (2015), “Các cộng đồng cư dân xuyên biên giới Việt-Trung”. Kỷ yếu Diễn đàn phát triển xã hội lưu vực sông Hồng Việt – Trung lần thứ V. Học viện Hồng Hà, Vân Nam, Trung Quốc, 14 Nov. 2015.
[22] Nguyễn Văn Chính – Dương Bích Hạnh (2001), Charateristics of poverty among the small ethnic groups in the northern mountain region of Vietnam. DFID Vietnam: Hanoi.
[23] Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII, ngày 16/7/1998. In trong: Văn kiện Đảng về phát triển kinh tế xã hội từ đổi mới (1986) đến nay. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014.
[24] Asian Development Bank (ADB), 2001. Báo cáo đánh giá tác động dự án giảm nghèo ở 6 tỉnh miền trung (Central Region Livelihood Improvement Project). Dự án có tổng số vốn 76 triệu đô la, tiến hành trong 5 năm, khởi động dự án 6/2001, kết thúc dự án 9/2009, trong đó vốn vay của Asian Development Bank là 43.1 triệu đô la, và của DFID 16.5 triệu đô la, thực hiện tại 150 huyện nghèo nhất thuộc miền trung Việt Nam.
[25] Trần Hữu Dũng, 2014. “Phát triển bền vững” nhìn từ góc độ xã hội và văn hóa. Tia Sáng 25/9/2014.
[26] Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 phê duyệt đề án phát triển văn hóa đến năm 2020
[27] UNESCO, 2018. “2030 Agenda for Sustainable Development”. http://unesdoc.unesco.org/images/0026/002646/264687e.pdf Truy cập 4/10/2018.
Nguồn: Bài viết xuất bản trong Kỷ yếu Dân tộc học của Viện Dân tộc học (2018)