Phương pháp

GIẢNG DẠY LÝ LUẬN VĂN HỌC Ở TRƯỜNG SƯ PHẠM THEO PHƯƠNG PHÁP TÍCH HỢP


19-10-2020
Tác giả: TS. Trần Thị Ngọc Anh Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên

Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”. Còn theo quan điểm Giáo dục học thì tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch/dự án dạy học. Tính tích hợp thể hiện qua sự huy động, kết hợp, liên hệ các yếu tố có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết có hiệu quả một vấn đề và thường đạt được nhiều mục tiêu khác nhau).

1.      Đặt vấn đề

Theo từ điển Tiếng Việt: “Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp”. Còn theo quan điểm Giáo dục học thì tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch/dự án dạy học. Tính tích hợp thể hiện qua sự huy động, kết hợp, liên hệ các yếu tố có liên quan với nhau của nhiều lĩnh vực để giải quyết có hiệu quả một vấn đề và thường đạt được nhiều mục tiêu khác nhau).

Nhìn chung, tích hợp có thể hiểu là sự phối hợp các hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống để bảo đảm sự hài hòa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống ấy. Tích hợp cũng có thể hiểu là sự hòa trộn. Dạy học theo phương pháp tích hợp là sự hòa trộn các phương pháp dạy và học khác nhau để lĩnh hội một hoặc nhiều đơn vị kiến thức. Vì vậy, đưa tư tưởng sư phạm tích hợp vào trong quá trình dạy học là cần thiết. Đây cũng là một trong những giải pháp đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nước nhà hiện nay. Dạy học theo phương pháp tích hợp sẽ chính là định hướng dạy học giúp học sinh phát triển khả năng huy động tổng hợp kiến thức, kỹ năng ... thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết có hiệu quả các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống. Nó được thực hiện ngay trong quá trình lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng; phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề.

Trong dạy học tích hợp, hoạt động học của sinh viên sẽ được coi là trung tâm của quá trình dạy học. Trong trường Đại học, dưới sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên sẽ tự thiết lập tiến độ và các bước thực hiện trong quá trình học tập. Quá trình này đặc biệt đề cao khả năng tự học và tăng cường sự ưu việt, tích cực của hoạt động nhóm. Sinh viên được khuyến khích, tạo cơ hội tham gia tích cực vào các hoạt động học tập và sáng tạo. Từ đó, các em sẽ có cơ hội tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức cũng như các kỹ năng mới. Hơn thế, việc tự học thành công sẽ giúp phát triển nhiều phẩm chất và năng lực quan trọng cho sinh viên như: tính chủ động, tự tin, khả năng suy nghĩ độc lập, năng lực hợp tác, năng lực tư duy phê phán và tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp. Trên cơ sở này, giảng viên sẽ tận dụng khả năng tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo để giúp sinh viên vận dụng kiến thức, kỹ năng vào quá trình giảng dạy sau này ở trường phổ thông cũng như trong cuộc sống.

Giảng viên với tư cách là người hướng dẫn cần thiết kế và lập môi trường học tập cởi mở, thân thiện. Đặc biệt, với một môn học khó như lý luận văn học thì định hướng giảng dạy theo phương pháp tích hợp là rất cần thiết. Lý luận văn học là một trong những bộ môn khoa học đặc thù của ngành đào tạo ngữ Văn tại các trường Sư phạm trên toàn quốc. Đây là bộ môn có vai trò rất quan trọng trong đào tạo giáo viên Ngữ văn các cấp, vì nó cung cấp lượng kiến thức nền cơ bản cho sinh viên trước khi ra trường để có thể vững vàng trên bục giảng. Tuy nhiên, trên thực tế, từ rất nhiều năm nay, ở ta tồn tại một thực trạng: việc nghiên cứu lý luận văn học ngày càng được nâng cao về chất lượng và số lượng nhưng việc áp dụng những thành tựu nghiên cứu vào giảng dạy lại chưa thật sự tương ứng. Thêm vào đó, ý thức của sinh viên sư phạm về tầm quan trọng của bộ môn này lại chưa cao. Vì vậy, việc nhìn nhận đúng đắn vai trò và tầm quan trọng của bộ môn này trong công tác đào tạo giáo viên ngành Ngữ văn là việc làm có ý nghĩa thiết thực. Điều này cũng tất yếu đòi hỏi một phương pháp giảng dạy hiệu quả hơn cho môn học này.

2.      Dạy học theo phương pháp tích hợp – sự thay đổi cần thiết đối với bộ môn lý luận văn học ở trường sư phạm

Lý luận văn học là một chuyên ngành nghiên cứu có tính chất đặc thù về văn học cũng như mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đời sống, quan hệ giữa văn học với các loại hình nghệ thuật khác. Từ đó góp phần khẳng định giá trị, vị trí của văn học trong đời sống tinh thần của con người. Sự giải phẫu, khám phá cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học với các yếu tố không gian, thời gian, nhân vật, người kể chuyện, cốt truyện, kết cấu...; đặc trưng các thể loại như thơ ca, tiểu thuyết, truyện ngắn... hay quá trình vận động hay còn gọi là tiến trình văn học và đặc trưng thi pháp nghệ thuật của các xu hướng, các trường phái, trào lưu văn học qua các thời kì lịch sử xã hội chính là cơ sở để người đọc, người học nghiên cứu và thưởng thức tác phẩm văn học. Chính vì thế, nắm vững những đơn vị kiến thức cơ bản của lý luận văn học là một cách giúp người học, người nghiên cứu văn chương chủ động, tự tin trong việc giải mã, cắt nghĩa các loại hiện tượng tác giả, tác phẩm văn học từ cổ đại đến hiện đại (đương đại), từ văn học phương Đông đến văn học phương Tây.

Trong ý nghĩa đó, lý luận văn học được coi là môn học cơ sở cho tất cả các hệ đào tạo ngành Ngữ văn. Đối với sư phạm ngữ văn, môn học này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi nó cung cấp lượng kiến thức nền cho toàn bộ việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông các cấp. Mặc dù vậy, trong thực tiễn, môn học này không nhận được nhiều sự đam mê, niềm yêu thích của sinh viên. Nói về môn học, phần lớn các sinh viên đều nhận định đây là môn học có lượng kiến thức hàn lâm và rất khó tiếp nhận. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập cũng như việc ứng dụng kiến thức lý luận vào dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông sau này của sinh viên. Đa số sinh viên hiện nay coi lý luận văn học như một món nợ phải trả cho nhà trường, thầy(cô) dạy gì thì học nấy, ít sinh viên chịu đọc thêm sách, tài liệu tham khảo.

Thêm vào đó, tại Khoa Ngữ văn – Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên chúng tôi những năm vừa qua có nhiều lưu học sinh nước ngoài (Lào, Trung Quốc) cùng học tập với sinh viên Việt Nam. Vì vậy, vấn đề học và ứng dụng kiến thức lý luận văn học trong dạy học văn vốn là một thử thách không nhỏ đối với sinh viên Việt Nam nay lại càng trở nên khó khăn bội phần với sinh viên ngoại quốc.

Trên thực tế, việc giảng dạy lý luận văn học theo lối truyền thống về cơ bản cũng đã cung cấp lượng kiến thức nền cần thiết cho sinh viên khi ra trường. Song, việc giáo viên có vai trò quá lớn trong quá trình học tập đã khiến năng lực sáng tạo và tư duy tích cực, chủ động của sinh viên ít nhiều ảnh hưởng. Khối kiến thức hàn lâm được thuyết trình nhiều hơn là chủ động trải nghiệm và rút ra kết luận đã vô hình đẩy việc học lý luận văn học của sinh viên vào thế bị động, học gì biết nấy. Môn học quan trọng với tất cả sinh viên Ngữ văn trở thành lãnh địa riêng chỉ của những sinh viên xuất sắc. Điều này làm nản lòng những sinh viên còn lại và thậm chí là cả giảng viên.

 Đứng trước thực tế này, đồng thời trong bối cảnh của quá trình đổi mới toàn diện giáo dục nước nhà, chúng tôi cho rằng cần phải thay đổi cách học tập môn lý luận văn học ở trường sư phạm để lý luận văn học cần được ý thức đúng về vai trò vốn có và cần phải có của nó trong nghiên cứu cũng như giảng dạy văn học ở nhà trường các cấp. Đặc biệt hơn nữa là, lý luận văn học cần phải trở thành tài sản và là niềm yêu thích, say mê của tất cả sinh viên Ngữ văn. Vì vậy, chúng tôi đã nghĩ đến việc sử dụng phương pháp tích hợp trong giảng dạy lý luận văn học ở trường sư phạm. Mục đích của phương pháp này là giúp sinh viên chủ động lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng mới và đưa các kiến thức, kỹ năng mới vào hệ thống kiến thức, kỹ năng đã có. Dưới sự trợ giúp của giảng viên sẽ giúp sinh viên sẽ xây dựng kiến thức, kĩ năng mới của bản thân trên cơ sở đối chiếu kiến thức, kinh nghiệm sẵn có với những hiểu biết mới; kết nối/sắp xếp kiến thức, kĩ năng cũ và mới dựa trên việc phát biểu, viết ra các kết luận/khái niệm lý luận văn học. Trên cơ sở đó, có thể sử dụng các kiến thức lý luận văn học vào các hoạt động nghiên cứu và giảng dạy văn học. Giảng viên sẽ yêu cầu học sinh thực hiện các nhiệm vụ, làm các bài tập cụ thể hình thành kiến thức, để diễn đạt được đúng kiến thức hoặc mô tả đúng kĩ năng đã học bằng ngôn ngữ theo cách của riêng mình, từ đó áp dụng trực tiếp kiến thức, kĩ năng đã biết để giải quyết các tình huống/vấn đề trong học tập và giảng dạy. Chúng tôi hướng sinh viên hoạt động trải nghiệm sáng tạo theo ba hướng: vận dụng, tìm tòi, mở rộng và xác định rõ sẽ không yêu cầu tất cả các sinh viên phải thực hiện giống nhau đối với các nhiệm vụ được giao; sản phẩm học tập của mỗi sinh viên/nhóm sinh viên được khuyến khích đa dạng các phương thức chuyển tải và sự hình thành nội dung kiến thức. Do vậy, trong quá trình lên lớp chúng tôi đã không chỉ dừng lại ở lối giảng dạy truyền thống, có tính chất đặc thù của bộ môn là giáo viên đưa ra các vấn đề lý thuyết, giảng giải một cách thuần túy và phân tích một vài dẫn chứng theo lối diễn dịch hoặc quy nạp một cách thông thường (bởi lý luận văn học vẫn là môn học khó và đòi hỏi có sự kiểm soát của giảng viên). Trên cơ sở tích hợp, chúng tôi đã hướng dẫn sinh viên chủ động lĩnh hội kiến thức qua các các tiểu dự án như: viết kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh, đọc phân vai khi học tác phẩm tự sự hoặc các trào lưu văn học, xây dựng kịch thơ, đọc diễn cảm khi học tác phẩm trữ tình, sân khấu hóa, thực hành viết các tiểu loại của ký khi học tác phẩm ký…, làm phim tư liệu về cuộc đời, sự nghiệp của các nhà văn, nhà thơ. Vì thế, ở mỗi vấn đề về lý luận văn học chúng tôi hướng dẫn và yêu cầu sinh viên phải đa dạng hóa các hình thức lĩnh hội kiến thức như: làm phim tư liệu, sân khấu hóa, gameshow, trao đổi – phỏng vấn, tiểu phẩm và các ý tưởng sáng tạo khác nếu có.

Do vậy, thực hiện phương pháp này, chúng tôi đặt hai mục tiêu quan trọng sau: thứ nhất: Giúp sinh viên tạo hứng thú học tập từ đó nâng cao hiệu quả tiếp nhận và sử dụng các kiến thức lý luận văn học hàn lâm và có phần khô khan. Thứ hai: Chúng tôi muốn hướng dẫn và gợi ý các ý tưởng và mô hình giảng dạy khác nhau cho sinh viên khi ra trường phổ thông. Đó là những mô hình và ý tưởng giảng dạy không chỉ dành riêng cho việc học cũng như giảng dạy phần lý luận văn học trong nhà trường mà có thể áp dụng đối với các giờ dạy tác phẩm văn chương khác.

Qua ba năm học áp dụng phương pháp dạy học mới (2012 – 2013, 2013 – 2014, 2014 - 2015) chúng tôi đã bước đầu có những thành công nhất định trong việc giảng dạy các học phần môn lý luận văn học.

Đối với các tiết học trong học phần “Mỹ học và nguyên lý lý luận văn học”, “Tác phẩm và thể loại văn học”, “Tiến trình văn học” các sinh viên đã hào hứng chuẩn bị các kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh, kịch thơ tổ chức các hình thức đọc phân vai, các dự án phím tư liệu. Tuy nhiên, vì lý luận văn học là bộ môn giảng dạy lý thuyết nên chúng tôi không chỉ dừng lại ở việc thực hành viết kịch bản hay sân khấu hóa là yêu cầu sinh viên thông qua việc thực hành này phải xác định được những nền tảng, cơ sở lý thuyết mà sinh viên đã sử dụng để xây dựng các kịch bản và sân khấu hóa các kịch bản đó, các đặc trưng của thể loại trữ tình, tự sự, kịch, ký hay các trào lưu văn học cần được khắc sâu thông qua các phần thực hành. Mặt khác, chúng tôi cũng yêu cầu các nhóm sinh viên trao đổi, phản biện về các sản phẩm thực hành và hiệu quả đối với phần kiến thức cần đạt. Trong một số tiết học chúng tôi cũng thành lập một nhóm chuyên gia có nhiệm vụ tổng kết nhận xét kiến thức. Nhóm chuyên gia được lớp thành lập gồm những thành viên học tập tích cực và được cùng giáo viên xem trước một số sản  phẩm của các nhóm và giáo viên sẽ định hướng việc nhận xét, tổng kết trên cơ sở sự chủ động của nhóm chuyên gia. (Giáo viên chỉ định hướng chứ không làm thay phần việc của nhóm chuyên gia).

Ví dụ: Khi giảng dạy phần kiến thức về phần “Nhân vật văn học”. Chúng tôi đã giao cho sinh viên hình thành khái niệm nhân vật văn học và sự phân loại và xây dựng nhân vật văn học. Lớp học được chia làm 4 nhóm. Các nhóm sinh viên đã khiến chúng tôi bất ngờ khi từng sản phẩm được trình bày. Nhóm 1: Hóa trang nhân vật anh cu Tràng (Vợ nhặt – Kim Lân) và thể hiện đoạn trích anh cu Tràng đối đáp với nhân vật thị. Nhóm 1 yêu cầu các nhóm còn lại đoán nhân vật, tác phẩm, trích đoạn. Lý do tại sao lại nhận ra các nhân vật? Từ đó cho biết thế nào là nhân vật văn học và sự phân loại nhân vật, vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học? Nhóm 2: Giới thiệu một đoạn đầu của bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học “Vợ chồng A Phủ” và yêu cầu so sánh giữa nhân vật trong nguyên bản tác phẩm và nhân vật đã được chuyển thể điện ảnh. Từ sự so sánh này, nhóm 2 yêu cầu các nhóm sinh viên phải lý giải thế nào là nhân vật, vai trò của các chi tiết trong việc xây dựng nhân vật và vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học? Nhóm 3: Mở một trích đoạn phim hoạt hình chuyển thể từ tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu ký” của Tô Hoài và yêu cầu các nhóm còn lại trả lời “Nhân vật văn học có phải hoàn toàn chỉ là con người không? Vì sao”. Nhóm 4 – nhóm chuyên gia có vai trò cùng thảo luận, lắng nghe, ghi chép và tổng kết các nội dung kiến thức lý thuyết mà các nhóm đã đưa ra (và nhận xét). Cuối cùng giảng viên cố định lại kiến thức cho sinh viên và giao các dự án bài tập mới.

Hoặc khi giảng dạy chương “Kết cấu tác phẩm văn học” phần “Điểm nhìn nghệ thuật”. Chúng tôi đã giao nhiệm vụ cho sinh viên: Đọc và tóm tắt phần kiến thức trong giáo trình và xây dựng dự án trình bày phần kiến thức này đồng thời khuyến khích đa dạng hóa các hình thức thể hiện. Kết quả cho thấy, sinh viên sư phạm Ngữ văn Thái Nguyên thật sự sáng tạo, chủ động và tích cực trong việc lĩnh hội kiến thức. Các em đã sử dụng thành thục các ứng dụng công nghệ thông tin vào triển khai các ý tưởng sáng tạo cho bài học. Điều này đã tạo hiệu ứng phong phú và tích cực cho người nghe. Cụ thể: Nhóm thứ nhất sử dụng nghệ thuật hội họa kết hợp với trình chiếu Power Point để truyền đạt kiến thức. Các em lấy ý tưởng từ tác phẩm “Nhật kí người điên” (Lỗ Tấn) và “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Các em vẽ tranh theo nội dung của các câu trích dẫn và yêu cầu các nhóm khác xác định vị trí câu nói trong tác phẩm, xác định điểm nhìn trần thuật đồng thời lý giải bằng lý thuyết cho các câu trả lời.  Nhóm thứ 2 và nhóm 4 sử dụng gameshow từ phiên bản “Ai là Triệu phú” được các em đổi thành “Triệu phú kiến thức” và gameshow “Hỏi xoáy đáp xoay” với sự dẫn dắt của MC (được đặt lại tên) Cù Thị Xoay. Đối với gameshow “Triệu phú kiến thức”, từ ý tưởng của chương trình “Ai là triệu phú” các e xây dựng các bộ câu hỏi xoay quanh lý thuyết điểm nhìn nghệ thuật cho người chơi và đáp án được xây dựng, giải thích có căn cứ từ lý thuyết điểm nhìn nghệ thuật. Đối với gameshow “Hỏi xoáy đáp xoay” cũng được xây dựng trên phiên bản của trò chơi truyền hình. Các em đã sáng tạo lồng ghép bằng chủ đề về “điểm nhìn nghệ thuật” một cách khá thông minh và thú vị. Trong cả hai gameshow này, các nhóm sinh viên đều tạo thêm những tình huống hóm hỉnh và hài hước để tạo không khí cho giờ học. Nhóm 3 chuyển thể kịch bản điện ảnh từ tác phẩm “Vợ chồng A phủ” (Tô Hoài) và “Cố Hương” của Lỗ Tấn. Sử dụng kỹ thuật điện ảnh kết hợp với hiệu ứng Power point, nhóm 3 đã đem đến cho lớp học một đoạn phim tâm trạng của Mỵ và một đoạn phim chuyển thể từ “Cố hương” (Lỗ Tấn) (đều do sinh viên tự thủ vai). Từ đó, nhóm yêu cầu các bạn trong lớp phân tích điểm nhìn nghệ thuật được nhà văn sử dụng trong tác phẩm. Nhóm 5 là nhóm Chuyên gia.  Đặc biệt, khi trình bày các sản phẩm của mình, các nhóm sinh viên đã xác định được mục tiêu cuối cùng là tiếp nhận lý thuyết văn học chứ không phải là giải trí. Chính vì vậy, sau mỗi sự trình bày của các nhóm là quá trao đổi thảo luận nhiệt tình giữa các nhóm sinh viên về hiệu quả cần đạt của các sản phẩm, về những ưu, nhược, những điều đã làm được và cả những điều chưa làm được. Đây là điều dường như rất ít thực hiện được trong các giờ giảng có tính chất truyền thống của chúng tôi trước đây.

Đối với các phần kiến thức lý thuyết quá hàn lâm chúng tôi yêu cầu các nhóm sinh viên sử dụng công nghệ power point thực hiện hai nhiệm vụ: Thứ nhất, tóm tắt giáo trình. Đây là việc làm cần thiết vì việc tóm tắt sẽ giúp nhận diện khả năng tự nắm bắt vấn đề và tư duy độc lập của sinh viên. Thứ hai, các sinh viên phải hình thành một hệ thống câu hỏi về những vấn đề khó hiểu, thậm chí phải đưa ra phương án trả lời cho các câu hỏi đó theo ý kiến chủ quan của mình mặc dù có thể sai. Từ đó, giảng viên sẽ có cơ sở để lý giải, nhận xét những đúng - sai và tổng hợp kiến thức cho sinh viên. Ở phần kiến thức này sẽ vừa phát huy được cả điểm mạnh của phương pháp dạy học truyền thống vừa kích thích khả năng chủ động lĩnh hội kiến thức của học sinh theo phương pháp mới. Chúng tôi cho rằng, đối với việc dạy học môn lý luận văn học thì giảng dạy theo phương pháp truyền thống vẫn cần được duy trì ở những phần kiến thức khó để đảm bảo độ tin cậy và chắc chắn cho lượng kiến thức cần chuyển tải đến sinh viên.

Bên cạnh việc giảng dạy theo các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, chúng tôi cũng đã xây dựng những giờ thực hành về phương pháp có tính chất gợi ý cho sinh viên về việc soạn giảng các bài học có tính lý luận ở trường phổ thông sau này như: Anh (chị) hãy định hướng nội dung bài học “Một số vấn đề về thể loại văn học” phần “thơ”(hoặc truyện, kịch …) trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Hay: Anh (chị) hãy định hướng nội dung phần bài học “Quá trình văn học” trong chương trình Ngữ văn lớp 12 … Việc dạy lý luận văn học ở trường sư phạm gắn liền với những định hướng về phương pháp giảng dạy, đặc biệt là giảng dạy chính lý luận văn học ở trường phổ thông theo quan niệm của chúng tôi là rất quan trọng. Vì một trong những điểm yếu của sinh viên hiện nay chính là việc sử dụng những kiến thức đã được học vào giảng dạy ở phổ thông qua các kỳ thực tập.

Có thể nói, việc áp dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau trong bộ môn lý luận văn học ở trường sư phạm đã khiến các sinh viên cảm thấy hứng thú hơn và hiệu quả giờ học cũng cao hơn. Các kỹ năng trong nghiệp vụ sư phạm như thuyết trình, phỏng vấn, điều khiển lớp học, viết bảng, soạn giáo án … của sinh viên cũng có cơ hội được rèn luyện nhiều hơn. Chúng tôi cũng đã nhận được những phản hồi tích cực từ phía sinh viên. Khi phỏng vấn sinh viên Lào sau một số giờ học bộ môn chúng tôi đã rất phấn khởi khi sinh viên cho rằng: Việc triển khai cách học môn lý luận văn học theo phương pháp tích hợp khiến cho sinh viên Lào dễ dàng tiếp nhận kiến thức hàn lâm và hứng thú học tập hơn rất nhiều. Đặc biệt, các sinh viên Lào cũng mong muốn việc học tập tại Việt Nam cần được tạo điều kiện theo hướng tích cực, chủ động như vậy.

Trong ba năm học 2012 – 2013, 2013 – 2014, 2014 – 2015, chúng tôi nhận thấy phương pháp giảng giạy và học tập theo hướng tích hợp đã dần được các em yêu thích và chủ động hoàn thành các nhiệm vụ học tập một cách khá say mê, hứng thú. Hiệu quả môn học được cải thiện theo từng năm. Đặc biệt trong năm học 2014 – 2015, cùng với sự chỉ đạo của Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, lớp học của chúng tôi được đầu tư cơ sở và trang thiết bị cũng như đề cương môn học có nhiều thay đổi theo hướng đổi mới đã khiến cho việc thực hiện phương pháp tích hợp trong giảng dạy môn lý luận văn học được thuận lợi và kết quả môn học của sinh viên cũng cao hơn. Nhiều sinh viên cho rằng, môn học lý luận đã không quá khó như lời “tương truyền” của các sinh viên khóa trước. Thậm chí các em cho rằng môn học là một thử thách thú vị trong quá trình học tập. Điều này cho thấy, việc vận dụng phương pháp dạy học theo hướng tích hợp là có cơ sở và thật sự cần thiết.

Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù việc sử dụng phương pháp mới trong dạy học lý luận văn học ở trường sư phạm đã có những kết quả đáng mừng nhưng những giảng viên trực tiếp giảng dạy chúng tôi vẫn nhận thấy những khó khăn và bất cập trong quá trình triển khai phương pháp tích hợp vào giảng dạy. Những khó khăn và bất cập này trên thực tế đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giảng dạy của giáo viên và kết quả học tập của sinh viên.

Về mặt chủ quan: Thứ nhất, nhiều giảng viên vẫn còn có những hạn chế về mặt công nghệ thông tin điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hướng dẫn sinh viên triển khai các ý tưởng sáng tạo cho bài học có sự trợ giúp của công nghệ thông tin. Nhiều giáo viên trong bộ môn vì hoàn cảnh riêng và các nhiệm vụ khoa học khiến quỹ thời gian eo hẹp, không thể quan tâm và sát sao đến mọi hoạt động sáng tạo của học sinh. Trong khi, giờ học theo hướng tích hợp lại cần sự đầu tư lớn của giáo viên (mặc dù không làm trực tiếp như lối giảng dạy truyền thống). Thứ hai, sinh viên của trường Đại học sư phạm Thái Nguyên phần đa là sinh viên miền núi nên việc tiếp cận với công nghệ thông tin và ngoại ngữ rất hạn chế. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc sinh viên ngại làm, ngại nghĩ. Đa phần các em sinh viên của trường có hoàn cảnh rất khó khăn vì thế mà cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự đầu tư học tập theo hướng hiện đại. Ý thức làm việc nhóm và làm việc độc lập chưa cao. Sinh viên vẫn còn bị động theo định hướng của giáo viên mà chưa có sự chủ động, sáng tạo.

Về mặt khách quan: Hệ thống cơ sở vật chất của nhà trường mặc dù đã được cải thiện rất nhiều nhưng vẫn còn thiếu đồng bộ và chưa phong phú. Các dự án triển khai đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập cũng chưa thật sự nhất quán và triển khai còn chậm, nhiều vướng mắc.

Mặc dù còn có những hạn chế và bất cập nhưng chúng tôi thiết nghĩ tất cả những khó khăn nêu trên đều có thể có điều kiện khắc phục trong thời gian tới. Với những lý do chủ quan về phía giảng viên, chúng tôi cho rằng với sự quan tâm hơn nữa của nhà trường, của ngành giáo dục cộng với tình yêu nghề sẽ giúp các giảng viên khắc phục được hoàn cảnh chủ quan và khách quan để hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy tốt hơn. Trong tương lai gần, đội ngũ giáo viên của trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên chúng tôi đã và đang khắc phục mọi khó khắn để nỗ lực chuẩn hóa trình độ tin học và ngoại ngữ để hỗ trợ cho công tác chuyên môn được hiệu quả hơn. Và cho đến thời điểm hiện tại có khoảng 90% giáo viên của trường đạt chuẩn trình độ tin học IC3 và khoảng 70% đến 80% giáo viên đạt chuẩn trình độ ngoại ngữ theo lộ trình của nhà trường.

Đối với sinh viên, đặc biệt là sinh viên khoa Ngữ văn với bộ môn lý luận văn học, chúng tôi cho rằng, các em sinh viên dưới sự giúp đỡ, hướng dẫn từ phía nhà trường và giáo viên cũng đang dần ý thức cao hơn về khả năng tư duy độc lập, tự học và sáng tạo. Song, chúng tôi cũng cho rằng, nhà trường cần quan tâm hơn nữa đến các em, có sự khuyến khích và động viên kịp thời đối với các ý tưởng sáng tạo độc đáo trong học tập của sinh viên. Thậm chí, có thể tổ chức các cuộc thi về ý tưởng sáng tạo trong học tập cho sinh viên. Sự tiếp tục đầu tư về cơ sở vật chất của nhà trường từ giảng đường, thư viện đến ký túc xá cũng sẽ là một điều kiện tốt để sinh viên có môi trường học tập tốt. Sự cải tiến về phương pháp kiểm tra, đánh giá cũng sẽ là một điều kiện để động viên các em hứng thú sáng tạo và say mê nghiên cứu, học tập nhiều hơn.

3. Kết luận

Có thể nói, sự phát triển của lý luận văn học, trong một chừng mực nào đó, có thể được xem là thước đo sự phát triển của đời sống văn hóa và trình độ tư tưởng của xã hội nói chung. Trong khi tiếp xúc với một thế giới đa dạng, nhiều nguồn thông tin phong phú qua sách báo,  mạng internet, chúng ta không thể để việc giáo dục bộ môn chỉ theo một hướng truyền thống mà cần phải có sự kết hợp giữa các phương pháp cũ và mới. Trong thời điểm hiện tại, chúng tôi đã lựa chọn phương pháp tích hợp để giảng dạy bộ môn này và bước đầu đã có những thành công nhất định.

Trong tương lai, chúng tôi cho rằng, việc giảng dạy bộ môn lý luận ở các trường sư phạm vẫn cần được đầu tư nhiều hơn nữa. Tránh việc biến tích hợp thành phương pháp kinh điển không mở rộng được. Tích hợp là cần thiết nhưng chắc chắn chưa phải là tất cả. Nhưng, chúng tôi nhận thấy, trong giai đoạn đầu của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nước nhà hiện nay, tích hợp đã trở thành nền tảng quan trọng, đầu tiên để việc đổi mới giáo dục được hiệu quả, thành công. Những gì đã đạt được của chúng tôi trong thời gian vừa qua đã phần lớn đã chứng minh điều đó. Chúng tôi mong nhận được những chia sẻ và góp ý trong thời gian tới để việc dạy học lý luận văn học ở môi trường sư phạm có thể hoàn thành tốt “sứ mệnh” nền móng trong việc học tập và giảng dạy tác phẩm văn chương của sinh viên sau này.

Post by: Vu Nguyen HNUE
19-10-2020