Nhìn chung, những tác phẩm văn học nước ngoài được đưa vào giáo dục trong trường THPT đều là những sáng tác được chọn lọc trong kho tàng văn học của các nước trên thế giới. Nói cách khác, đó là những tác phẩm đã vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian, không gian để trở thành tinh hoa văn hóa nhân loại và đến với chúng ta hôm nay. Hơn nữa, đó là những sáng tác rất giàu giá trị nhân văn, giàu tinh thần dân tộc, có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng, ý thức hướng tới điều thiện, giáo dục nhân cách cho người học.....
MỞ ĐẦU
Nhìn chung, những tác phẩm văn học nước ngoài được đưa vào giáo dục trong trường THPT đều là những sáng tác được chọn lọc trong kho tàng văn học của các nước trên thế giới. Nói cách khác, đó là những tác phẩm đã vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian, không gian để trở thành tinh hoa văn hóa nhân loại và đến với chúng ta hôm nay. Hơn nữa, đó là những sáng tác rất giàu giá trị nhân văn, giàu tinh thần dân tộc, có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng, ý thức hướng tới điều thiện, giáo dục nhân cách cho người học. Đó là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn, đạt trình độ mẫu mực được viết ra bởi tài năng nghệ thuật bậc thầy của các nhà văn xuất sắc trên thế giới. Tiếp xúc với tác phẩm văn học nước ngoài theo tiến trình lịch sử có đối chiếu so sánh với văn học Việt Nam, học sinh có thể thấy được ảnh hưởng sâu rộng của văn học nước ngoài đến văn học nước nhà và thấy được vị thế của văn học dân tộc trong kho tàng vô giá của nhân loại. Chắc chắn việc định hướng tiếp nhận tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường phổ thông đóng vai trò không nhỏ trong việc dạy và học của giáo viên, học sinh, hứa hẹn mang lại một giờ học văn chương thực thụ. Và quan trọng nhất là tạo được bầu không khí văn chương trong giờ học, giúp cho học sinh có điều kiện bộc lộ mình, rút ra bài học quý báu cho bản thân, đồng thời khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong dạy học.
1. Thực trạng dạy học tác phẩm văn học nước ngoài
Tác phẩm văn học nước ngoài là những tác phẩm hay nhưng khó, đòi hỏi người giáo viên cần có kiến thức sâu và rộng, lựa chọn được phương pháp tiếp cận tối ưu. Nhưng một thực trạng đáng nói tới ở đây đó là quy trình dạy học hầu như không thay đổi. Phương pháp chủ yếu của giáo viên vẫn là thuyết giảng – giáo viên làm thay công việc của học sinh. Điều này đã trái với mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn hiện nay. Cũng bởi thực tế đó nên các tiết học chưa tạo được hứng thú, sự chủ động của học sinh khi tiếp cận, cắt nghĩa tác phẩm.
Các em học sinh còn nặng về tâm lí “thi gì học đấy”, hay học chỉ nhằm mục đích lấy điểm, vượt qua các kì thi chứ không phải học để có kiến thức, để phát triển nhân cách toàn diện. Chính vì thế đã ảnh hưởng đến việc đánh giá giá trị của một tác phẩm văn chương. Tác phẩm nào được thi thì sẽ trở thành tác phẩm quan trọng. Còn những tác phẩm không thi thì không phải học và cũng không cần phải biết. Với tâm lí như vậy, các em sẽ rơi vào lối học thực dụng, chủ quan, lệch lạc, theo ý thích. Dẫn đến tình trạng khi tìm hiểu tác phẩm học sinh không chú ý, không có động lực để các em tìm tòi, khám phá.
Nhìn chung, khi tiếp cận tác phẩm văn học nước ngoài một số em có mong muốn được tìm hiểu nhiều, nhưng lại thích các tác phẩm đi theo thị hiếu mà thôi. Sở thích của các em theo xu thế hiện nay thiên về truyện trinh thám, mạo hiểm. Đối với những tác phẩm cổ điển các em cảm thấy khó tiếp nhận vì học sinh cho rằng tác phẩm ấy đã hình thành từ rất lâu rồi, bởi vậy tạo khoảng cách lớn không chỉ về không gian, thời gian mà cả quan niệm thẩm mĩ với thời hiện đại. Học sinh gặp nhiều khó khăn trong khi tiếp nhận tác phẩm vì nó thuộc về văn hóa của một quốc gia khác, châu lục khác, khác với nền văn hóa nước nhà. Do vậy dẫn đến tình trạng không hứng thú, khó hiểu.
Điều mà một người giáo viên cần đạt trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn học nghệ thuật là định hướng các em cảm nhận giá trị nhân văn thông qua các lớp hình tượng. Khá nhiều thị hiếu thẩm mĩ, niềm say mê của các em học sinh chưa dành nhiều cho những tác phẩm trong sách giáo khoa. Điều này dẫn đến tình trạng trong quá trình tiếp nhận tác phẩm các em chưa thật sự đào sâu, tìm tòi những chân giá trị chứa đựng trong đó.
1.1. Những khó khăn khi dạy học tác phẩm văn học nước ngoài
Vấn đề dạy học tác phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường hiện nay khá nhiều bất cập. Do dung lượng lớn, tài liệu hạn chế, vốn liếng tri thức của giáo viên và học sinh còn ít ỏi, lượng thông tin kiến thức về văn bản và ngoài văn bản còn sơ sài, kiến thức về lịch sử, văn hóa, xã hội của các quốc gia trên thế giới chưa được cập nhật thường xuyên. Với quan niệm văn học nước ngoài học chỉ để biết chứ không phục vụ cho thi cử nên thầy cô cũng coi nhẹ vấn đề soạn và giảng. Vì vậy mà việc dạy và học tác phẩm văn chương nước ngoài trong trường phổ thông ở Việt Nam hiện nay gặp rất nhiều khó khăn.
Khó khăn trước hết là khoảng cách khá lớn về không gian, thời gian, về lịch sử và tâm lí. Khoảng cách lịch sử giữa thời đại tác phẩm được sinh ra với thời đại ngày nay là quá lớn. Dẫn đến tình trạng, khi đứng trước tác phẩm nhiều giáo viên nhất là học sinh cảm thấy vô cùng xa lạ. Nếu không được giải thích, hướng dẫn thì quá trình tiếp nhận khó mà hiểu và cảm nổi. Mặc dù trong các bài học ở sách giáo khoa, các nhà biên soạn đã có phần tiểu dẫn trình bày về tác giả, hoàn cảnh ra đời tác phẩm để giáo viên khai thác tuy nhiên vẫn cần có sự tham khảo thêm sử liệu, bổ sung thêm nhiều kiến thức về lịch sử, văn hóa, tính cách con người của dân tộc ấy để làm rõ yếu tố thời đại.
Khó khăn thứ hai là vấn đề bản dịch. Người dịch với tư cách là người tái tạo lại tác phẩm nguyên bản bằng ngôn ngữ thứ hai. Trong khi chuyển dịch tác phẩm, sự tinh tế và chính xác của ngôn ngữ gốc không còn được bảo lưu nguyên dạng. Người dịch cần vừa làm thỏa nguyện tác giả, vừa làm thỏa nguyện người đọc. Để thực hiện được nhiệm vụ kép đó, người dịch phải có tài năng song ngữ, đồng thời cũng phải có hiểu biết sâu rộng về đặc điểm con người, nền văn hóa của hai xứ sở. Hơn nữa, bản thân giáo viên hiện nay rất ít biết đến ngoại ngữ nên khó so sánh văn bản dịch với văn bản gốc dẫn đến không thể phát hiện được những điểm mới, những căn cứ khoa học để hiểu sâu văn bản.
Khó khăn thứ ba là vấn đề phân phối chương trình. Những tác phẩm văn học nước ngoài được chọn để giảng dạy trong sách giáo khoa phổ thông hiện nay hầu hết là những tác phẩm kinh điển, hoặc là tác phẩm của những nhà văn lớn. Thế nhưng, theo phân phối chương trình, giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhiều nhất qua hai tiết học, bao gồm cả giới thiệu tác giả, tác phẩm, tóm tắt tác phẩm trọn vẹn. Như vậy, có thể nói rằng quá trình giảng dạy chỉ mới tìm hiểu sơ lược về tác phẩm mà thực sự chưa có điều kiện để đi sâu, mở rộng do hạn chế về mặt thời gian, khuôn khổ phân phối chương trình dạy và học.
Khó khăn thứ tư là chúng ta dạy và học tác phẩm văn học nước ngoài trong điều kiện tài liệu, sách vở phục vụ cho tham khảo còn khan hiếm. Trong sách giáo khoa chỉ là đoạn trích, tác phẩm trọn vẹn hay những tác phẩm phục vụ cho việc liên hệ, mở rộng hay một số tác phẩm có cùng đề tài anh chị em giáo viên chỉ mới nghe đến nhưng chưa một lần được tiếp cận, tìm hiểu. Khó khăn này không phải một sớm một chiều khắc phục ngay được bởi nó còn phụ thuộc vào sự đầu tư cho thư viện của các cơ sở giáo dục.
Một khó khăn rất lớn nữa trong dạy và học tác phẩm văn học nước ngoài nằm ngay trong quan niệm của người dạy và người học. Trên thực tế, hiện nay phần văn học nước ngoài ngoài việc kiểm tra miệng, hầu như các tác phẩm đều cho vào quên lãng vì chúng không có trong những tiết kiểm tra. Do đó, giáo viên và học sinh đều xem tác phẩm là cái bên lề, cái dư thừa, học để biết chứ không phải để cảm thụ. Chính điều đó đã làm mất đi giá trị đích thực của một tác phẩm văn học. Với quan điểm như vậy thì khó có thể có được một giờ giảng hiệu quả, tạo sự hấp dẫn, hứng thú cho người học.
Tình trạng dạy học tác phẩm văn học nước ngoài hiện nay trong trường phổ thông Việt Nam còn nhiều bất cập. Qua việc tìm hiểu những khó khăn khi giảng dạy, chúng tôi mong muốn tác động đến người dạy cũng như người học ý thức phải luôn biết tìm tòi, đổi mới hướng tiếp nhận mới có thể lĩnh hội được đầy đủ chân giá trị của tác phẩm.
1.2. Môi trường tiếp nhận
Khi tìm hiểu, khám phá một tác phẩm văn học thì môi trường tiếp nhận đóng vai trò vô cùng quan trọng. Trong một giờ dạy học Ngữ văn, nếu giáo viên là chủ thể của lớp học, tổ chức, hướng dẫn điều khiển học sinh thì học sinh lại chính là trung tâm của giờ học. Mọi hoạt động, phương pháp của người giáo viên đều phải dựa trên chính học sinh của mình để điều khiển lớp học sao cho đúng chuẩn mực sư phạm nhất, học sinh được phát huy tính tích cực, chủ động cao nhất.
Điều đáng nói là học sinh phổ thông đang ở lứa tuổi ý thức cá nhân phát triển mạnh, nhân sinh quan và thế giới quan hình thành, phát triển, chi phối sự phát triển nhân cách của các em. Những quan niệm của bản thân về cuộc sống, về gia đình, bạn bè, về lí tưởng, niềm tin, nghề nghiệp tương lai đã có chủ định. Tuy nhiên, vốn sống và tầm tri thức của các em còn nhiều hạn hẹp. Hơn nữa, giáo viên giảng dạy thì đã được đào tạo chuyên sâu về bộ môn, còn học sinh vẫn đang ngồi trên ghế nhà trường, đang trong hành trình tiếp nhận tri thức toàn diện, chuẩn bị hành trang cần thiết để có thể tự lập bước vào đời. Trước thực tế đó, người thầy không chỉ truyền giảng tri thức cho học sinh mà thông qua văn bản, thông qua kĩ năng đọc hiểu, huy động kích thích tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Người giáo viên cũng cần tạo nên bầu không khí tiếp nhận thoải mái, dẫn dắt các em đi tìm chân lí thông qua hình tượng thẩm mĩ của tác phẩm.
Hơn nữa, môi trường tiếp nhận tác phẩm văn học nước ngoài còn chịu ảnh hưởng từ đặc trưng văn hóa, quan niệm dân tộc được áp dụng vào việc đọc hiểu văn bản. Bởi vậy, người dạy lẫn người học rất dễ rơi vào tình trạng lấy quan niệm hiện tại làm thước đo thế hệ trước, dẫn đến cái nhìn thiếu tổng quát và hạn chế tính hiện đại của nó.
Thực tế cho thấy, những khác biệt về kinh nghiệm sống, văn hóa, giáo dục, cách dùng ngôn ngữ, thể loại,… khiến cho tầm đón nhận của học sinh so với tầm phản ánh giá trị trong tác phẩm có khoảng cách khá lớn. Học sinh không nắm bắt được trọn vẹn những yêu cầu đó nên không thể yêu thích những tác phẩm này dù các em vẫn biết đó là những tác phẩm đỉnh cao của văn học dân tộc. Vì vậy, việc đưa học sinh về môi trường văn hóa của thời đại, kéo tầm đón nhận phù hợp với thời đại là việc làm cần thiết cả về kĩ năng lẫn phương pháp giáo dục.
Quá trình giảng dạy tác phẩm, giáo viên chưa chỉ rõ được sự khác biệt giữa hai nền văn hóa nên việc khai thác tác phẩm thường nặng nề màu sắc chủ quan của người dạy. Người dạy cần xác định văn hóa là sự khác biệt, sự khác biệt tạo ra nét đặc trưng văn hóa riêng. Điều đó đòi hỏi người dạy cần nắm vững những kiến thức này để tránh cái nhìn phiến diện một chiều. Chẳng hạn, đặc trưng văn hóa Mĩ là coi trọng nguyên tắc, văn hóa Ấn Độ là tính khoan dung, văn hóa Trung Hoa là trọng tôn ti, văn hóa Việt Nam là trọng tình nghĩa, văn hóa Nga vừa giản dị, vừa bí ẩn, vừa phương Tây vừa phương Đông,... Nhưng do giáo viên giảng dạy hạn chế về vốn kiến thức văn hóa các nước nên dẫn đến tình trạng chất lượng giờ dạy không đạt hiệu quả cao, chưa hấp dẫn và lôi cuốn các em học sinh.
Hiện nay, việc vận dụng kiến thức liên môn trong giờ giảng văn tuy đã được quan tâm những vẫn còn nhiều hạn chế. Kiến thức liên môn giúp người học nhận thức được tác phẩm văn học trong môi trường văn hóa – lịch sử sản sinh ra nó hay trong môi trường diễn xướng của nó. Tuy nhiên, tích hợp kiến thức liên môn phải được tuân thủ nguyên tắc: chọn lọc, phù hợp, vừa đủ. Chọn lọc những kiến thức thật cần thiết để tích hợp nhằm giúp học sinh lấy đó làm phương tiện khám phá, lĩnh hội kiến thức mới trong bài. Phù hợp trình độ nhận thức, tâm sinh lí của học sinh, tránh bài học nặng nề kiến thức, quá tải cho học sinh. Do đó, khi giảng dạy tác phẩm văn học nước ngoài người giáo viên cần phải vận dụng kiến thức liên ngành, liên môn. Kiến thức của các ngành liên quan (địa lí, lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, triết học, phong tục tập quán…) giúp cảm hiểu tác phẩm văn học nước ngoài đúng và sâu. Chẳng hạn, trong chương trình Ngữ văn 10 đã đưa thể loại thơ Hai-cư vào giảng dạy. Để giúp học sinh nắm bắt, hiểu đúng về thơ hai-cư thì người dạy cần bổ sung kiến thức về văn hóa Nhật Bản như thiên nhiên, Thần đạo, Thiền tông, hoa đạo và trà đạo,…
Loại hình nghệ thuật như hội họa, kiến trúc, sân khấu, điêu khắc, ca nhạc, phim ảnh,… là kết quả sáng tạo của xã hội loài người. Một hình ảnh nghệ thuật giúp người học sử dụng trí tưởng tượng của mình tập trung vào những điểm quan trọng. Trong tiến trình đọc hiểu văn bản văn học nước ngoài, giáo viên cần sử dụng tư liệu về các tác phẩm nghệ thuật.
Từ năm học 2006-2007 đến nay, sách giáo khoa Ngữ văn của cả ba khối lớp đã được thay đổi dựa trên tinh thần tích hợp của ba phân môn tiếng Việt, làm văn và đọc văn. Đặc biệt, phần văn học Việt Nam và văn học nước ngoài được thiết kế đan xen vào nhau, giúp học sinh không chỉ có cái nhìn toàn diện hơn về nền văn học Việt Nam mà còn có cơ hội so sánh, đối chiếu với nền văn học thế giới. Đây là sự đổi mới hết sức đúng đắn. Trước xu thế đó, người dạy và người học cần phải đổi mới môi trường tiếp nhận đúng đắn, phù hợp, thích ứng với nhu cầu của xã hội.
2. Nguyên tắc tạo lập môi trường tiếp nhận
Việc dạy và học tác phẩm văn học nước ngoài nhằm tiếp cận chân lí tác phẩm thật không dễ dàng. Vì vậy, tạo lập một môi trường tiếp nhận tối ưu là điều kiện “cần” và “đủ” để có thể mang lại một bầu không khí văn chương thực thụ. Học sinh đón nhận tác phẩm bằng một sự hứng khởi, say mê, chủ động chứ không phải là sự gò ép, thụ động.
Người giáo viên đóng vai trò là chủ thể tác động và định hướng quá trình tiếp nhận những giá trị thẩm mĩ của một văn bản văn học cho học sinh. Nên giáo viên chính là cầu nối giữa tác phẩm văn học và học sinh, là người rút ngắn khoảng cách giữa quan niệm nghệ thuật, ý đồ sáng tác của tác giả với khả năng tiếp nhận của học sinh. Đồng thời, người thầy có khả năng khơi gợi ở học sinh tình yêu, lòng đam mê tác phẩm. Nâng cao tầm đón nhận cho học sinh của mình bằng cách dựa vào chính tài năng, nghệ thuật sư phạm của một người giáo viên Ngữ văn. Bởi vậy, khi thiếu đi vai trò định hướng của người thầy học sinh khó có thể cảm thụ được đầy đủ giá trị một tác phẩm văn chương.
Nhận thức đúng tầm quan trọng, vị thế của chủ thể lớp học, người giáo viên trong quá trình thiết lập môi trường tiếp nhận đều phải dựa trên chính học sinh của mình để điều khiển lớp học sao cho học sinh có thể cảm thụ được tác phẩm một cách tối ưu nhất. Khi nghiên cứu về việc định hướng tiếp nhận tác phẩm văn học nước ngoài trong trường phổ thông, tôi nhận thấy cần thiết lập môi trường tiếp nhận cho học sinh trong cả giờ học chính khóa và giờ học ngoại khóa.
2.1. Giờ học chính khóa
Tác phẩm văn học nước ngoài là những sáng tác rất giàu giá trị nhân bản, giàu tinh thần dân tộc. Việc dạy và học để tiếp cận chân lí tác phẩm không phải là điều dễ dàng. Do đó, khi nghiên cứu, tìm hiểu tác phẩm đòi hỏi người giáo viên trong quá trình lên lớp phải soi chiếu văn bản từ nhiều góc độ mới thấy được bản chất của nó.
Góc độ thứ nhất là bám sát tác phẩm theo khuynh hướng lịch sử. Những tác phẩm văn học có giá trị thường không đứng riêng rẽ một mình mà luôn luôn có mối quan hệ với các lĩnh vực khác như lịch sử xã hội, văn hóa, thậm chí cả lĩnh vực nghệ thuật khác nữa. Cần phải xác định một tác phẩm ra đời từ một hoàn cảnh xã hội, văn hóa nhất định và từ một cá nhân cụ thể - nhà văn. Đây chính là công việc đầu tiên trong quá trình tìm hiểu chung về văn bản. Giáo viên định hướng cho học sinh tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm văn học.
Góc độ thứ hai cần lưu ý khi giảng dạy tác phẩm văn học nước ngoài chính là việc đặt tác phẩm trong nền văn hóa dân tộc đó và trong mối tương quan văn hóa giữa hai dân tộc trên cơ sở dung hòa môi trường văn hóa. Đây chính là một trong những biện pháp hữu hiệu giúp học sinh có một đánh giá khách quan về hình tượng nhân vật trong từng tác phẩm và là cơ sở để lí giải vì sao trong cùng một thể loại mà tính cách các nhân vật lại khác nhau.
Góc độ thứ ba, cần tiếp cận vấn đề thi pháp của tác phẩm. Chẳng hạn khi giảng dạy tác phẩm Người trong bao của Sêkhốp, người giáo viên cần quan tâm đến thi pháp truyện ngắn của nhà văn. Sêkhốp là người đã nâng thể loại truyện ngắn tới mức hoàn thiện, mở lối, khơi đường với cách viết độc đáo, sáng tạo. Bám sát thi pháp truyện ngắn Sêkhốp là phương thức giúp cho người dạy, người học đi vào khám phá thế giới nghệ thuật đầy bí ẩn của ông. Giúp cho người tiếp nhận có hướng đi đúng và hiểu đầy đủ hơn tư tưởng mà nhà văn gửi gắm qua tác phẩm.
Góc độ thứ tư, đặt tác phẩm trong nhóm những tác phẩm cùng phương diện đề tài, chủ đề, nhân vật để so sánh, đối chiếu. Ví dụ người dạy cần so sánh một số phương diện về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Người trong bao với truyện ngắn Khóm phúc bồn tử, Một chuyện tình yêu để giúp hiểu hơn ý nghĩa cũng như điều nhà văn muốn gửi gắm. Từ đó có thể đánh giá Người trong bao là truyện ngắn xuất sắc nhất của tác giả.
Góc độ thứ năm, để hiểu sâu về chủ đề, kết cấu, vai trò của người kể chuyện cần so sánh đoạn trích với bản dịch đầy đủ, so sánh cách dịch nhan đề của các tác giả. Khi đưa vào sách giáo khoa nhiều tác phẩm chỉ còn là văn bản trích, bởi vậy có một vài chi tiết bị lược bỏ hoặc tóm tắt. Trong khi đó nhiều đoạn văn bản không được trích giảng hoặc chỉ được tóm tắt lại chứa đựng những chi tiết khá quan trọng. Vì thế, khi dạy giáo viên cần phải được tiếp xúc với toàn bộ văn bản và giúp học sinh tiếp cận với nó. Phải phân tích toàn bộ văn bản mới lí giải hết ý nghĩa sâu xa của nó.
Với những góc độ tiếp nhận tác phẩm đáng lưu ý ở trên sẽ giúp học sinh không quá bỡ ngỡ với tác phẩm. Điều tất yếu, bằng phương pháp, kĩ năng và nghệ thuật sư phạm của bản thân, người giáo viên phải biết đưa các góc độ tiếp cận vào trong thiết kế bài giảng của mình một cách tối ưu nhất. Có như vậy, học sinh mới thấy được sức hấp dẫn của tác phẩm.
2.2. Giờ học ngoại khóa
Theo dõi quá trình đổi mới phương pháp dạy học Văn – tiếng Việt ở nhà trường phổ thông trong những năm gần đây, có thể thấy nội dung đổi mới thường tập trung vào giờ chính khóa, còn hình thức ngoại khóa ít được chú trọng, triển khai. Để giải quyết những thực trạng trên đây, người giáo viên cần kết hợp đổi mới phương pháp dạy cả giờ chính khóa lẫn hoạt động ngoại khóa, mà trước hết là phải có một quan niệm đúng về tầm quan trọng, ý nghĩa của những hoạt động ngoại khóa văn học.
Hoạt động ngoại khóa văn học trong nhà trường phổ thông góp phần hạn chế sự cách biệt nói trên và bù đắp được phần nào những thiếu sót trong phương thức đào tạo một con người hội tụ vẻ đẹp về thể chất cũng như tâm hồn. “Thông qua hoạt động ngoại khóa học sinh có nhiều cơ hội thể hiện bản thân mình, đặc biệt là những điểm mạnh của học sinh trong quá trình học tập ở giờ chính khóa do không có nhiều thời gian nên không thể phát huy được” [3, 19]. Hoạt động này có tác dụng phục vụ đắc lực cho việc dạy học tác phẩm trong chương trình chính khóa, góp phần hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo của người học.
Một trong những yếu tố quan trọng để người giáo viên hoàn thành vai trò, trách nhiệm của mình là việc thực hiện chương trình với những biện pháp phù hợp cả trong cả giờ học chính khóa và ngoại khóa. Hòa nhập trong xu thế thay đổi toàn diện nền giáo dục quốc dân, công tác ngoại khóa trở thành một phần quan trọng, khăng khít với chính khóa. Tuy nhiên, hoạt động ngoại khóa cần dựa trên những nguyên tắc cơ bản, trong đó cần phải nói đến nguyên tắc của lí luận dạy học và đặc trưng bộ môn. Trong bài viết Nguyên tắc hoạt động ngoại khóa, GS. Phan Trọng Luận đề ra ba nguyên tắc cơ bản của hoạt động ngoại khóa văn học như sau:
“Thứ nhất là nguyên tắc giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, tư cách cho học sinh” [7, 386]. Theo quan điểm của tác giả, hoạt động ngoại khóa văn học không phải là một hoạt động văn chương thuần túy, mà phải gắn vào việc giáo dục chính trị, giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh.
“Thứ hai là nguyên tắc tự nguyện và phải phù hợp trình độ tâm sinh lí của học sinh, nghĩa là mọi hoạt động đều phải xuất phát từ chính tâm tư nguyện vọng của học sinh, từ đó học sinh mới thể hiện được nhiều nhất tính năng động và sáng tạo của mình.
Thứ ba là dựa vào nội dung của hoạt động ngoại khóa, những vấn đề trong ngoại khóa không lặp lại nội khóa nhưng phải có một mối liên hệ nhất định” [7, 386].
Bên cạnh đó, cần lưu ý đến nguyên tắc phù hợp tâm lí lứa tuổi học sinh. Học sinh THPT đang ở độ tuổi giàu ước mơ, hoài bão, sống có lí tưởng và rất lạc quan. Độ tuổi này các em nhận thức được các chuẩn mực, giá trị, quy tắc của đạo đức nhà trường, gia đình, xã hội. Vì vậy, hoạt động ngoại khóa cần chú ý khơi dậy sự tự giác, tự nguyện của học sinh. Khi đã tự nguyện, tự giác, học sinh sẽ khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Giúp các em bộc lộ đầy đủ hơn những kĩ năng, năng khiếu mà trong quá trình học tập các em ít được bộc lộ. Cũng trong điều kiện này, hoạt động ngoại khóa còn giúp giáo viên hiểu, thông cảm và yêu thương học sinh hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động ngoại khóa trong bộ môn Ngữ văn, giáo viên giảng dạy cần lựa chọn hướng tiếp cận tác phẩm trong giờ học ngoại khóa trên cơ sở những hiểu biết thật thấu đáo, triệt để về tác phẩm trong giờ học chính khóa. Khi tổ chức thực hiện, giáo viên cần quan tâm đến đặc điểm đối tượng giáo dục mà trực tiếp nhất là thực trạng tư tưởng, tình cảm, tâm lí của học sinh. Tác phẩm chỉ có thể tác động đến học sinh khi nó được tiếp nhận thông qua cảm xúc, rung động và khơi gợi được hứng thú từ bên trong người tiếp nhận. Có như vậy giờ học ngoại khóa mới đạt được hiệu quả cao nhất.
Hoạt động ngoại khóa có rất nhiều hình thức: đọc ngoại khóa văn học, sưu tầm tác phẩm, tham quan, dã ngoại, tổ chức gặp gỡ, giao lưu với các tác giả đương thời,… Đối với những tác phẩm kinh điển, qua quá trình tìm hiểu có thể thấy tác phẩm đã được chuyển thể thành phim, kịch và phim hoạt hình, có tượng, tranh về nhân vật,... Nhưng sẽ rất khó triển khai trong dạy học thực tế tại nhà trường là vì không có thời gian để học sinh xem phim, giáo viên chỉ biết động viên các em tự sưu tầm, xem ở nhà. Bởi vậy, phương pháp lựa chọn hữu hiệu nhất trong giờ học ngoại khóa là cho học sinh đọc ngoại khóa hoặc lựa chọn đoạn trích tiêu biểu nhất, chuyển thể thành kịch bản và các em tự sắm vai, diễn xuất, còn giáo viên là người hướng dẫn, định hướng cho các em.
Đọc ngoại khóa đóng góp một phần không nhỏ trong việc hiểu và cảm thụ tác phẩm. “Con đường đi vào tác phẩm nhất thiết phải từ đọc, gắn liền với việc đọc... Đọc sẽ làm âm vang lên những tín hiệu của cuộc sống mà nhà văn định gửi gắm... kích thích quá trình tri giác, tưởng tượng và tái tạo hình ảnh” [8, 71]. Tuy nhiên, khi lựa chọn hình thức đọc ngoại khóa, giáo viên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa thư viện nhà trường, do các giáo viên trong tổ Văn phụ trách. Hướng dẫn học sinh lựa chọn những tác phẩm có cùng đề tài để đọc. Đọc trọn vẹn tác phẩm, ghi chép, nghiền ngẫm, làm bài thu hoạch. Trong quá trình viết, ghi chép lại những vấn đề đọc được, học sinh phải làm sáng tỏ quan điểm của bản thân mình thông qua các năng lực tư duy: sắp xếp những suy nghĩ, tổ chức chúng và chia sẻ chúng với người khác.
Quá trình tổ chức đọc ngoại khóa tác phẩm, học sinh phải được hướng dẫn đầy đủ, cẩn thận, phương pháp chính vẫn là gợi mở, động viên, khuyến khích để học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo. Chú ý là không nên gò ép, bắt buộc sẽ gây cho học sinh cảm giác căng thẳng, gò bó, dẫn đến hậu quả là giảm sự hứng thú của các em. Nhất thiết phải kiểm tra đánh giá các em từ khả năng hiểu, phân tích, đánh giá tác phẩm, đến khả năng thuyết trình (giọng nói, phong cách, phương pháp thuyết trình).
Giáo viên có thể lựa chọn hình thức sân khấu hóa tác phẩm, chuyển thể thành kịch bản. Để thực hiện thành công hoạt động này, cần thực hiện trình tự các bước từ khâu chuẩn bị (xác định mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của chương trình, yêu cầu với Ban tổ chức, đối tượng tham gia, sân khấu, trang phục,…), đến khâu viết kế hoạch (xây dựng kế hoạch chi tiết, dự trù kinh phí, nêu biện pháp và tiến độ thực hiện từng phần cụ thể), tiến hành chương trình (theo đúng trình tự, sắp xếp một cách khoa học, có chủ đề, đề tài cụ thể, tạo không khí vui tươi, thoải mái, sinh động nhưng không thoát li nội dung giáo dục, cần có phần khai mạc, bế mạc). Sau khi hoàn thành chương trình cần tổng kết, rút kinh nghiệm để các buổi sau thực hiện tốt hơn.
Để có thể vận dụng thành công phương pháp ngoại khóa khi tìm hiểu tác phẩm, cần sắp xếp thời gian biểu cho môn học một cách khoa học và linh hoạt. Bên cạnh đó, đòi hỏi sự tâm huyết, tinh thần trách nhiệm của giáo viên giảng dạy, sự hỗ trợ tích cực của tổ bộ môn và niềm hăng say, tự nguyện của học sinh,… Một giờ ngoại khóa đạt hiệu quả là các em phối hợp nhuần nhuyễn giữa lí thuyết và thực hành, khơi gợi khát vọng sáng tạo, khát vọng chiếm lĩnh tri thức của chủ thể tiếp nhận. Hiểu sâu sắc tác phẩm để từ đó học sinh tự mình ý thức về mình để sống có nhân cách hơn, trong sạch hơn, cao thượng hơn, bản lĩnh hơn.
KẾT LUẬN
Tác phẩm văn học nước ngoài là kết tinh tư tưởng nghệ thuật cũng như quan niệm về cuộc sống, con người của nhà văn được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông. Tuy nhiên, quá trình lĩnh hội tác phẩm còn có nhiều hạn chế do rất nhiều nguyên nhân: khoảng cách về thời gian, không gian, về văn hóa, lịch sử và tâm lí; tài liệu tham khảo còn hạn chế; với quan niệm tác phẩm văn học nước ngoài không có trong đề thi nên giáo viên ít đầu tư soạn giảng, học sinh không quan tâm đến tác phẩm; do phương pháp giảng dạy chưa phù hợp với đặc trưng kiểu bài,… Với nhiều điểm còn tồn tại như vậy thì không thể có một giờ dạy hay và đạt hiệu quả, dẫn đến sự hiểu biết của giáo viên và học sinh còn nghèo nàn, chưa xứng tầm giá trị của tác phẩm. Đứng trước thực trạng còn nhiều bất cập đó, bài viết mạnh dạn đề xuất định hướng tiếp nhận tác phẩm văn học nước ngoài bằng việc thiết lập môi trường tiếp nhận trong giờ học chính khóa và giờ học ngoại khóa. Với mong muốn sẽ trở thành nguồn tham khảo hữu ích cho các bạn bè đồng nghiệp, sinh viên sư phạm – thầy cô giáo tương lai, góp phần khắc phục thực trạng dạy học văn học nước ngoài còn nhiều bất cập như hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia.
2. Lê Huy Bắc (2009), Dạy học văn học nước ngoài Ngữ văn 11 cơ bản và nâng cao, NXB Giáo dục.
3. Đoàn Thụy Bảo Châu (2010), Hoạt động ngoại khóa văn học ở trường trung học phổ thông, Luận văn thạc sĩ giáo dục.
4. Nguyễn Viết Chữ (2009), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường, NXB Giáo dục Việt Nam.
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục.
6. Nguyễn Thị Thanh Hương (1998), Phương pháp tiếp nhận tác phẩm văn học ở trường phổ thông trung học, NXB Giáo dục.
7. Phan Trọng Luận (2001), Văn học nhà trường, nhận diện, tiếp nhận, đổi mới, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
8. Lưu Thị Ngọc (2010), Dạy học truyện ngắn “Người trong bao” của A.P. Sêkhốp ở trung học phổ thông theo hướng tiếp cận văn hóa, Luận văn thạc sĩ.
9. Nhiều tác giả (2001), Ngữ văn 10, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam.