Phương pháp

Triết lí giáo dục của John Dewey với giáo dục và dạy học ở Việt Nam


19-10-2020
Tác giả: TS Nguyễn Ái Học

Tư tưởng triết học và sự nghiệp giáo dục đồ sộ của John Dewey đã bao trùm đời sống trí thức Mỹ, ảnh hưởng to lớn làm thay đổi nền giáo dục Mỹ suốt thế kỷ XX...Đối với giáo dục của Việt Nam hôm nay, nội dung triết lý giáo dục của John Dewey vẫn là những giá trị đầy tính thời sự, nó càng đặc biệt có ý nghĩa khi Đảng, nhà nước, Bộ giáo dục ở Việt Nam đang xây dựng và phát triển đề án “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

TRIẾT LÝ GIÁO DỤC CỦA JOHN DEWEY VỚI GIÁO DỤC VÀ DẠY HỌC Ở VIỆT NAM

T.S Nguyễn Ái Học

1. John Dewey là ai?

          John Dewey là nhà triết học lớn nhất nước Mỹ nửa đầu thế kỉ XX, ông đồng thời là nhà giáo dục vĩ đại, đóng góp lớn lao vào công cuộc cải cách giáo dục của nhân loại. Tư tưởng triết học và sự nghiệp giáo dục đồ sộ của John Dewey đã bao trùm đời sống trí thức Mỹ, ảnh hưởng to lớn làm thay đổi nền giáo dục Mỹ suốt thế kỷ XX. Ông đã trở thành thần tượng của những tri thức Hoa Kỳ lỗi lạc. Ông sinh ngày 20/10/1859 và mất ngày 01/06/1952( thọ 93 tuổi).

          John Dewey đã dành trọn cuộc đời dài gần một thế kỷ của mình cho sự nghiệp xây dựng một nền giáo dục dân chủ, vì sự tiến bộ của người học, vì lợi ích to lớn của con người, vì sự phát huy tận độ tài năng, trí tuệ, đạo đức nơi mỗi cá nhân con người, nhằm xây dựng cộng đồng xã hội thực sự tốt đẹp. Tuy nhiên, triết lý giáo dục của Dewey, tư tưởng dân chủ giáo dục của ông không phải được ủng hộ hoàn toàn trên đất Mỹ, các trường phái đối lập vẫn chỉ trích ông. Mặc dầu vậy, những thành quả lao động của Dewey vẫn luôn là một di sản vô giá, đặc biệt với những người muốn xây dựng trường học theo ý tưởng của Dewey. Có thể nói, di sản giáo dục của John Dewey chưa được xem là một phương pháp mang tính phổ cập cho giáo dục nhân loại, nhưng triết lý, tư tưởng, quan điểm của Dewey đi vào thực tiễn trong gần một thế kỷ qua, và điều đáng nói là nó vẫn là những quan điểm đầy “khiêu khích” đối với “triết lý” và “thực tiễn” giáo dục của loài người. Đối với giáo dục của Việt Nam hôm nay, nội dung triết lý giáo dục của John Dewey vẫn là những giá trị đầy tính thời sự, nó càng đặc biệt có ý nghĩa khi Đảng, nhà nước, Bộ giáo dục ở Việt Nam đang xây dựng và phát triển đề án “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.

2. Triết học và triết lý giáo dục của John Dewey

          2.1 Triết học John Dewey

          Nhìn vào niên biểu cuộc đời và tác phẩm của Dewey, chúng ta dễ dàng nhận thấy triết học Dewey là một quá trình. Được đào tạo khá bài bản về triết học ở trường Đại học John Hopkins- một trường đi tiên phong trong giáo dục sau đại học theo mô hình Đức tại Mỹ( Lưu ý sinh viên, học viên tìm hiểu thêm về mô hình Đại học HumBoldt và sự ảnh hưởng của nó trên khắp thế giới, đặc biệt là sự ảnh hưởng của nó đến sự hình thành và phát triển của các Đại học ở Mỹ…) với những người thầy triết học ảnh hưởng tư tưởng trường phái Hêghen, với luận văn tốt nghiệp tiến sĩ mang đề tài: Tâm lý học của Kant, John Dewey  ban đầu đã chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lý tưởng tuyệt đối của phái Hêghen, nhưng sự biến chuyển đổi thay, do nhiều tác động của bối cảnh khoa học thời đại ông tại Mỹ, John Dewey đã đến với tư tưởng triết học thực dụng. Từ đây, người ta đã biết đến John Dewey là nhà triết học thực dụng( hay là công cụ luận, thuyết công cụ…) có ảnh hưởng lớn nhất, người đưa tư tưởng thực dụng một cách có phương pháp vào sinh hoạt hàng ngày của tổ chức đời sống xã hội ở Mỹ, đặc biệt là việc triển khai tư tưởng thực dụng trong giáo dục Mỹ thế kỷ XX.

2.1.1 Quan niệm của John Dewey về triết học, về công việc của triết học

          Quan niệm của John Dewey về triết học được gửi gắm trong toàn bộ trước tác của ông về triết học và giáo dục. Những người nghiên cứu về John Dewey đều tìm thấy ý nghĩa thực dụng trong triết học của ông ngay khi ông nêu những quan điểm của mình. Hơn ở đâu hết, chúng ta có thể lắng nghe những tuyên ngôn trực tiếp của ông. Theo Dewey “…Quan niệm tồi tệ nhất là quan niệm cho rằng triết học là để giải thích “tồn tại” là gì, như ta thấy ở quan niệm của người Hi Lạp cổ đại, hoặc giả quan niệm coi triết học là để giải thích “ thực tại” là gì, như ta thấy ở triết học hiện đại…Tôi quan niệm triết học phải giải quyết những vấn đề của nền văn minh, văn minh hiểu theo nghĩa khai quát, được các nhà nhân học đưa ra rất dễ hiểu- tức triết học phải giải quyết những mô thức nằm trong các mối quan hệ con người. Triết học phải bao gồm những chủ đề như ngôn ngữ, tôn giáo, nền sản xuất, chính trị, mỹ học bao lâu giữa chúng có tồn tại một mô thức chung chứ không phải xét chúng tồn tại như những vấn đề tách rời và độc lập. Nhiệm vụ chính của triết học là tìm cách hiểu được nguyên nhân sâu xa của sự rối loạn rất dễ nhận ra trong những thời điểm diễn ra sự biến động nhanh chóng của nền văn minh, hiểu được cái gì nằm ở đằng sau cái đang bộc lộ ra bên ngoai, hiểu được chất đất nào nuôi dưỡng những gốc rễ của một trình độ văn minh cụ thể. Triết học quan tâm tới mối quan hệ giữa con người với thế giới nơi nó đang sống bao lâu con người và thế giới bị tác động bởi văn hóa, sự tác động này là vô cùng lớn, chứ không phải như ta thường vẫn tưởng” [1;1]

          Phê phán triết học chỉ dừng lại ở việc giải thích “ tồn tại” là gì, hoặc giải thích “ thực tại” là gì, Dewey đưa triết học tiến tới giải quyết những vấn đề cụ thể của đời sống nhân sinh, “ giải quyết những vấn đề gần gũi với con người”. Với Dewey, “ những vấn đề của triết học luôn thay đổi khi thế giới của con người thay đổi”, bởi vậy, “ giáo sư và sinh viên nên tìm cách nói cho người khác biết sự thay đổi gì đang xảy ra”. Quan niệm triết học và công việc của triết học gắn với môt thời đại mới, như Dewey nói: “ Thời đại mới này hầu như là hệ quả của khoa học tự nhiên ra đời vào thế kỷ XVI nhờ Galileo và Niuton, bởi vì ững dụng của khoa học tự nhiên đã làm thay đổi hoàn toàn cung cách sống và những mối quan hệ giữa con người. Ứng dụng khoa học đã làm nên những đặc điểm của nền văn hóa hiện đại và những vấn đề quan trọng của nó”[ 1;2]

          Quan niệm triết học của Dewey gắn với quan điểm thực tiễn khá triệt để, bởi vậy triết học của Dewey thường gắn với cái nhìn của nhà xã hội học. Triết học gắn với nhiệm vụ xã hội, giải quyết các vấn đề thực tại. “ Hiểu rõ được tình hình hiện tại đòi hỏi nhiều can đảm. Hiểu được tình hình một cách triệt để đòi hỏi nỗ lực lâu dài. Nhưng triết học đem lại niềm hi vọng mới vì triết học nhất định phải tham gia vào việc khởi xướng những xu hướng vận động để rồi sau đó con người sẽ hoan tất những xu hướng đó bằng hành động.

          Bước trước tiên là phải thẳng thắn nhận ra thế giới mà chúng ta đang sống lúc này là gì và nó sẽ đi về đâu. Ngay cả nếu như chúng ta không thể làm được gì bằng sức lực đôi tay và cơ bắp thì chúng ta ít nhất cũng có thể nhìn thẳng vào nó. Nhưng điều không nên làm là thêu dệt những bức màn chắn khiến cho chúng ta không nhận ra tình hình đang diễn ra thực sự”[ 1;3]

          Quan niệm trên đây của Dewey cho thấy nhiệm vụ của triết học là nhiệm vụ phân tích thực tiễn, để khai mở những con đường hành động. Từ cơ sở sinh  vật học, từ Dacwin, từ những nghiên cứu tâm lý học chức năng, Dewey là người phủ định mạnh mẽ thuyết nhị nguyên truyền thống, như sự chia cắt tinh thần và vật chất, cá nhân và xã hội. Ông hào hứng nêu lên: “ Trong vài thế kỷ qua khoa học đã thủ tiêu rất nhiều sự chia cắt nhị nguyên: tinh thần và vật chất, cá nhân và xã hội…Những chia cắt nhị phân này đã từng có đất sống lâu dài chỉ bởi vì những điều kiện của nền văn minh đã cho phép điều đó. Chúng ta còn thiếu một tư tưởng có hệ thống để chỉ ra sự phát triển tiếp theo. Triết học không thể giải quyết những vấn đề này, cũng giống như triết học thế kỷ XVII không thể giải quyết những vấn đề của vật lý học, song các nhà triết học ngay hôm nay có thể phân tích những vấn đề và đưa ra những giả thuyết phục vụ và gây ảnh hưởng tới nhiều người để rồi chúng có thể được trắc nghiệm bằng phương pháp duy nhất sau đây: Việc làm thực tiễn” [ 1;4]

          Quan niệm triết hoc và công việc của triết học trên đây đã đưa John Dewey trở thành nhà triết học thực dụng có ảnh hưởng lớn nhất, ông được xem là cha đẻ của trào lưu tân giáo dục.

2.1.2 Những nội dung cơ bản của triết học thực dụng.

          Triết học thực dụng là triết học gắn với khoa học, bắt nguồn từ một quan niệm dựa trên cơ sở sinh học rằng: “ Cơ thể con người luôn tìm kiếm một trạng thái yên tâm hoặc thăng bằng. Nó tìm kiếm một sự điều chỉnh trước môi trường của nó. Đây là khuynh hướng cơ bản của cơ thể con người, nó bị ràng buộc vào các nhu cầu sinh lý cơ bản nhất buộc phải được đáp ứng nếu như sự sống, xét như là một giá trị quan trọng số một, muốn được duy trì” [ 3;32,33]

          Theo Dewey, đôi khi sự biến đổi quyết liệt của môi trường, sinh vật người không thấy mình có sẵn một đáp ứng thích đáng nào nên nó phải xoay sở cho ra một giải đáp để tiếp tục sống còn. Do đó có nhu cầu suy nghĩ. Nếu tương quan giữa sinh vật- người và môi trường được mô tả bằng từ ngữ “ hoàn cảnh” hoặc “ tình huống”  thì người ta có thể cho rằng tư duy chỉ thiết yếu khi có một hoàn cảnh hay tình huống sụp đổ… “ Hành động tư duy có nghĩa là giải quyết một vấn đề. Tư duy không phải một phương tiện để khám phá bản tính của thực tại tối hậu mà là công cụ thực hành được dùng để tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề thực tiễn[…] Thật vô nghĩa khi nói đến chân lý tuyệt đối, vì tri thức hoặc chân lý tuyệt đối đều bị giới hạn trong các giải pháp cho các vấn đề cá biệt. Chân lý có tinh tương đối đối với các hoàn cảnh( hay tình huống) cá biệt, và có bao nhiêu giải pháp cho vấn đề thì có bấy nhiêu chân lý”[ 6;420,421]

          “ Về phương diện siêu hình học, chủ nghĩa thực dụng bác bỏ quan niệm của Platon cho rằng tư tưởng của một con người xuất phát từ một “ khái niệm” toàn cầu, bất biến, thuộc về một cõi siêu hình nào đó và không lệ thuộc vào quan niệm của con người. Những người theo chủ nghĩa thực dụng cho rằng, tư tưởng là công cụ của con người, gồm có giả thuyết, ước đoán và những kế hoạch, nhằm giải quyết các vấn nạn của con người. Tư tưởng xuất phát từ xã hội, liên quan tới các sinh hoạt của con người. Thay vì đi tìm các câu trả lời trong cõi siêu hình, những người thực dụng chú trọng vào sự tương tác giữa con người với nhau, giữa con người với môi trường nó sinh sống. Những sự tương tác này tạo ra những vấn nạn con người cần giải quyết để sinh tồn và để sống một cách thoải mái. Quan tâm chính yếu của những người thực dụng là tìm ra một phương pháp giải quyết vấn đề của con người trong đời sống thực.

          Về phương diện nhận thức luận, Dewey và những người thực dụng quan tâm đến câu hỏi: Làm thế nào để ta biết rằng ta biết? Làm sao ta có thể biết những ý tưởng của ta là đúng? Đâu là cách chính xác nhất để ta nhận biết? Tuy nhiên, những người thực dụng không chấp nhận câu trả lời là “ cái biết” của ta do một nguồn nào đó cao hơn kinh nghiệm của con người ban cho. Họ cho rằng biết của con người phải xuất phát từ kinh nghiệm mà ra. Dewey định nghĩa: “ Kinh nghiệm là tiến trình tương tác giữa con người và môi trường”. Trong tiến trình này con người sẽ gặp phải những vấn đề mới làm trở ngại nếp sinh hoạt đã quen, nghĩa là những vấn đề khác với những gì mà kinh nghiệm trong quá khứ đã giải quyết, và cần có những giải pháp mới. Đời sống theo Dewey và những người theo chủ nghĩa thực dụng là một chuỗi các vấn đề, và “ một đời sống thành công là một đời sống trong đó cá nhân và tập thể xác định được vấn đề đặt ra cho họ và tìm cách giải quyết được những vấn đề này”.

          Về phương diện giá trị luận, Dewey bác bỏ quan niệm của Plato cho rằng các giá trị đạo đức xuất phát từ một đấng tối cao mang tinh cách bất biến, phổ cập và vĩnh cửu cho mọi thời đại, hay quan niệm của Aristotle cho rằng giá trị đạo đức mang tinh phổ cập ngàn đời vì được đặt căn bản trên lý tính của con người, và lý tinh cũng giúp con người nhận thức thế nào là thiện ác, đúng sai. Dewey cho rằng các giá trị luân lý, đạo đức thay đổi theo từng thời đại chứ không bất biến như Plato và Aristotle quan niệm…

          Về phương diện luận lý học, những người thực dụng dựa vào thực chứng kinh nghiệm và những ý tưởng đã được đánh giá qua kinh nghiệm và qua các thử nghiệm khoa học. Những người thực dụng không chấp nhận phương pháp suy luận diễn dịch đi từ một tiền đề( trong triết học) hoặc một định đề( trong toán học) mà vận dụng phương pháp quy nạp đưa đến một kết luận tổng quát dựa trên những trường hợp đặc thù. Luận lý quy nạp trong triết học và khoa học đưa đến những kết luận, những “ chân lý” tương đối, những chân lý đã được kiểm nghiệm trong quá khứ. Nhưng những chân lý này luôn luôn bị thử thách bởi các khám phá mới và các chứng cứ mới[ 5;2,3]

          Một triết học như vừa mô tả trên đây rõ ràng là triết học giải quyết các vấn đề thực tiễn, triết học gắn với khoa học nhằm cải tạo thực tiễn. Cái nối kết giữa các nhà thực dụng( tiêu biểu là Peirce. James và John Dewey) với nhau là niềm tin của họ rằng có một sự liên kết mật thiết giữa tư duy và hành động. Khái niệm thực dụng đối với các nhà triết học thực dụng có nghĩa là cách thức mà tư duy thể hiện trong hành động. Các nhà triết học thực dụng coi rẻ kiểu tư duy không tạo ra được sự thay đổi nào trong đời sống. Tinh thần thực dụng nói trên đây đã đưa tới những nguyên tắc cơ bản mà chủ nghĩa thực dụng tuân theo như: ý tưởng của ta thực sự có giá trị khi đã được thể nghiệm trong hoạt động thực sự của con người; kinh nghiệm là kết quả của sự tương tác giữa con người với nhau và giữa con người với thiên nhiên; trong đời sống thì con người phải đối phó với những tình huống “ hoang mang, bối rối” trước vấn đề khác với kinh nghiệm đã từng trải qua, đó là sự trục trặc cần phải giải quyết và tư duy bắt đầu từ đó. Tư duy như vậy hiển nhiên phải là tư duy khoa học gắn với thực nghiệm để thực thi. Chính điều này đã thúc đẩy John Dewey tập trung bàn nhiều về tư duy, phương pháp tư duy, rèn tư duy, “ rèn trí nghĩ” mà ông gọi là: “ Cách chúng ta nghĩ”( How we think). Chính nơi đây Dewey đã cho ra đời bản lược đồ tư duy( có người gọi là phương thức tư duy toàn diện) hết sức quan trọng, gồm “ năm bước tách biệt theo logic: (I) một cái khó được thâu nhận;( II) phạm vi và định nghĩa của nó;(III) đề xuất cho một giải pháp khả dĩ;(IV) sự triển khai bằng cách lập luận cho những căn cứ của đề xuất;( V) tiếp tục quan sát và thực nghiệm đi đến chấp nhận hoặc bác bỏ đề xuất, tức là một kết luận tin theo hay không tin theo”[ 4;120,121]

          Lược đồ trên đây là minh chứng cho quan niệm của các nhà thực dụng rằng: chủ nghĩa thực dụng là một phương pháp, triết học thực dụng là triết học khoa học, phương pháp khoa học. Với Dewey, tư duy khời đầu bằng một “ sự hoài nghi” có thực, bằng một “ nhu cầu cảm nhận được”. Sự tra vấn triết học dấy lên từ những vấn đề thuộc về lương tri, gắn với những vấn đề mang ý nghĩa cá nhân, ở đó, việc tìm ra một giải pháp khả thi mới là quan trọng. Hoài nghi ở đây là “ hoài nghi đích thực trong tâm lý” gắn vơi cảm giác bị kích thích thực sự thay cho cảm giác “ hoài nghi giả vở”, “ hoài nghi tất cả” trong truyền thống triết học Descartes. Thứ đến( giai đoạn hai trong bản lược đồ của Dewey) là “ sự cô lập” điều nghi vấn cần được giải quyết và làm rõ nó. Ở đây, có việc cần phải loại trừ những nghi vấn giả bằng cách chuyển từ cảm giác đơn thuần bị kích thích sang thành một nghi vấn trí tuệ, xem xét những điều kiện có thực. Giai đoạn thứ ba của bản lược đồ như chính Dewey phân tích: “ Sự gợi ý chính là trung tâm của suy luận”. Đó là “ giả định”, “ phỏng đoán”, “ dự đoán”, “ giả thuyết”. “ Việc nuôi dưỡng các gợi ý đa dạng và có thể thay thế cho nhau là một nhân tố quan trọng của việc suy nghĩ đến nơi, đến chốn”. Giai đoạn thứ tư của bản lược đồ là việc “ phân giải chi tiết một ý kiến”, tức là tìm phương thức giải quyết cho một giả thuyết. Đây chính là sự “ kiểm soát trí tuệ nghiêm ngặt”, để đi đến giai đoạn thứ năm là “ chứng thực bằng thực nghiệm”.

Năm bước của “ cách ta nghĩ” cho thấy trí nghĩ đã được rèn luyện là “ trí óc nắm bắt được tốt nhất mức độ quan sát, việc hình thành ý kiến, lý giải và những kiểm nghiệm cần thiết cho bất cứ trường hợp đặc biệt nào, và nó tận dụng được tối đa cho những suy nghĩ tương lai, những sai lầm đã phạm phải trong quá khứ…”[ 4;130] Theo Reginald D.Archambault [ 3;34,35], lần đầu tiên Dewey đã sử dụng thuật ngữ quan trọng của khoa học, đó là thuật ngữ “ giả thuyết” ( Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy năm bước trong lược đồ tư duy của Dewey đã đi vào các công trình nghiên cứu của nhân loại, dễ thấy nhất là ở các công trình luận văn thạc sĩ, tiến sĩ. Chúng ta cũng đừng quên năm bước trong lược đồ tư duy của Dewey đã công bố cách đây hơn một thế kỷ- cuốn “ Cách chúng ta nghĩ” xuất bản vào năm 1910. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa thấy một mô hình tư duy khoa học nào với các bước khác xa hơn).

          Triết học của John Dewey đi vào đời sống học thuật và đời sống xã hội…đã nâng Dewey lên địa vị vừa là nhà triết học, vừa là nhà tâm lý học, vừa là nhà tổ chức xã hội. Nhưng tên tuổi lẫy lững John Dewey đặc biệt gắn với triết lý giáo dục của ông.

2.2 Triết lý giáo dục của John Dewey

          Lý thuyết về kinh nghiệm phải được hiện thực hóa thông qua thực nghiệm và hòa hợp với thực tiễn. Đó là cốt lỗi của tư tưởng triết học thực dụng của Dewey được ông vận dụng vào lĩnh vực giáo dục.

          Triết học giáo dục của Dewey phải được hiểu trong bối cảnh triết học của ông diễn ra trong bối cảnh lịch sử của nước Mỹ đầu thế kỷ XX. Trong tiểu luận “ Nhu cầu về một triết học giáo dục” [ 3;55], Dewey đã đối lập triết học giáo dục của ông với……giáo dục của nhà trường truyền thống, với nhiều điểm lạc hậu của nó. Mở đầu tiểu luận này, Dewey viết: “ Nền giáo dục truyền thống là một tập ngữ nếu không muốn nói là của sự phản kháng thì ít nhất cũng là sự tương phản, tương phản lại với một nền giáo dục chủ yếu mang tính chất tĩnh về nội dung, độc đoán về phương pháp, và trẻ em chủ yếu là thụ động và tiếp nhận”. Từ đó Dewey bắt dầu tiến thẳng vào đặt vấn đề: triết học giáo dục là một nỗ lực nhằm tìm ra giáo dục là gì và giáo dục diễn ra như thế nào? Để trả lời câu hỏi ấy Dewey đã xuất phát từ căn cứ khoa học với sinh vật học và cả tâm lý học chức năng. Ông viết: “ Trước khi chúng ta có thể phát biểu một triết lý giáo dục, chúng ta buộc phải hiểu được bản tính con người được cấu tạo như thế nào trong cụ thể, chúng ta buộc phải hiểu được những hoạt động của những ảnh hưởng xã hội có thực”. Rõ ràng, Dewey đã chú ý đến hai yếu tố tương tác với nhau để cho những kết quả giáo dục. Đó là yếu tố cá nhân và yếu tố môi trường xã hội. Trong hoạt động tương tác ấy, những nguyên liệu cơ bản được biến thành điều gì đó mang ý nghĩa to lớn hơn. Như vậy, “ giáo dục là một quá trình của phát triển, của tăng trưởng”, tăng trưởng xã hội trên cơ sở cá nhân. Mục tiêu của giáo dục là phát triển tối đa những tiềm năng cá nhân. Quá trình giáo dục là quá trình hoạt động của con người trong một xã hội- “ một xã hội của những cá nhân tự do trong đó tất cả bằng lao động của riêng mình đóng góp cho sự khai phóng và làm phong phú cuộc sống của người khác, chính là môi trường duy nhất để mọi cá nhân có thể thực sự phát triển bình thường xứng với tầm của mình”.

          Tư tưởng khoa học trong triết lý giáo dục của John Dewey làm cơ sở thật vững chắc để ông tiến tới tư tưởng dân chủ trong giáo dục- một triết lý gắn với thực tiễn của thời đại đồng thời là một triết lý tiến bộ nói lên được khát vọng nhân văn to lớn, sâu xa của loài người. Ông viết: “ Trong một thế giới bị cuốn vào cuộc chạy đua điên rồ và thường là tàn nhẫn vì lợi ích vật chất bằng sự cạnh tranh liên tục, thì trường học phải có trách nhiệm bằng nỗ lực có tổ chức một cách thông minh và bền bỉ để trên hết phải phát triển ý chí hợp tác và tinh thần biết nhận ra ở mọi cá nhân khác một con người có quyền bình đẳng  chia sẻ những thành quả văn hóa và vật chất của sự sáng tạo tập thể, của nền công nghiệp, của kỹ năng và tri thức của con người. Mục tiêu tối cao về trí tuệ và nhân cách này là có tính tất yếu vì những lí do khác chứ không phải là để bù đắp cho cái tinh thần vô nhân đạo sinh ra từ sự cạnh tranh kinh tế và bóc lột”[ 3;66].     “ Một xã hội không đáng hoan nghênh là một xã hội đặt ra bên trong và bên ngoài nó những rào cản ngăn chặn sự giao tiếp và truyền đạt kinh nghiệm một cách tự do. Một xã hội cho phép mọi thành viên chia sẻ bình đẳng lợi ích của nó và điều chỉnh linh hoạt các thiết chế dựa vào mối quan hệ tương giao của các hình thái tồn tại liên kết khác nhau, xã hội ấy cho tới nay được gọi là dân chủ. Với tính chất như thế, một xã hội phải có một kiểu giáo dục giúp cho các cá nhân có được mối hứng thú riêng tới các quan hệ xã hội và kiểm soát xã hội, và tạo ra những thói quen tinh thần có thể duy trì những thay đổi xã hội mà không gây nên sự hỗn loạn” [ 2;126]

          Đến đây chúng ta có thể thấy: khoa học và dân chủ là hai nội dung lớn duy nhất có mối quan hệ biện chứng với nhau bao trùm trong triết lý giáo dục của John Dewey. Tinh thần “ khoa học và dân chủ” thấm nhuần và chi phối mọi khía cạnh nội dung lý luận giáo dục của John Dewey, tạo nên tính nhất quán của triết lý giáo dục của ông. Triết lý ấy hóa thân vào các nội dung lý luận giáo dục phong phú, sinh động thể hiện qua nhiều công trình khá đồ sộ mà John Dewey đã đóng góp cho nhân loại. Chúng ta thật khó mà khái quát đầy đủ triết lý giáo dục của Dewey qua vài nhận xét ngắn gọn.Ở đây, chỉ xin nêu lên một số nội dung- theo chúng ta là cốt lõi triết lý giáo dục của Dewey:

Trường học không đơn thuần là nơi người lớn dạy cho trẻ con các bài học kiến thức và bài học luân lý. Trường học phải là một cộng đồng dân chủ trong đó mọi hoạt động được tập trung nhằm tạo ra hiệu quả cao nhất trong việc chia sẻ cho người học di sản tri thức nhân loại và làm cho họ có thể sử dụng tài năng của mình vào mục đích xã hội. Do đó, giáo dục là một hoạt động của đời sống, là bản thân quá trình sống của trẻ em chứ không phải là một sự chuẩn bị cho một cuộc sống tương lai mơ hồ nào đấy.

Nhà trường có nhiệm vụ tạo ra những điều kiện tốt nhất để cá nhân người học phát huy tận độ năng lực của mình, tạo dựng kiến thức cho mình bằng toàn bộ công cụ của chính mình như: đôi mắt, đôi tai, đôi tay, đôi chân và đặc biệt là tư duy. Tóm lại là người học có thể phát triển toàn vẹn mọi khả năng của mình để tham gia vào đời sống xã hội.

Không có nội dung hoặc giá trị tự thân tuyệt đối nào từ bên ngoài được mang áp đặt cho học sinh. Nhà trường và giáo viên phải tạo ra một môi trường trong đó những hoạt động của trẻ chứa đựng cả những tình huống khó khăn, để từ đó người học tự tìm tòi và xây dựng kiến thức thông qua “ kinh nghiệm” và “ tư duy”, thông qua “ trải nghiệm” của chính bản thân.

Học sinh là mục đích tồn tại của hoạt động giáo dục. Học sinh phải liên tục được khuyến khích tham gia vào các hoạt động của nhà trường. Học sinh phải thực sự là người cộng tác để lên kế hoạch cho chương trình học và do đó lên kế hoạch cho toàn bộ môi trường học. Qua hoạt động của nhà trường, của lớp học, học sinh tham gia vào những phương pháp khoa học và “ thủ tục” dân chủ. Học sinh thực sự tham gia vào việc sáng tạo và duy trì một đời sống xã hội trong cộng đồng lớp học, trong nhà trường.

Giáo viên đóng vai trò là tác nhân quan trọng bậc nhất cho sự khai phóng của người học. Đó là “ người trợ giáo trong vương quốc đích thực của Thượng đế”. Giáo viên không phải là một “ quyền uy ban phát” kiến thức, không phải là một vị quan tòa mà là một thành viên trong cộng đồng lớp học. Giáo viên có nhiệm vụ là môt tác nhân kích thích. Bằng việc cung cấp vật liệu, đầu mối thông tin, gợi ý, tổ chức, hướng dẫn…giáo viên có thể tạo ra một môi trường khuyến khích sự học tập. Muốn vậy, giáo viên phải là một chuyên gia được đào tạo tốt, một người hiểu biết giáo dục toàn diện.

Nội dung của giáo dục phải phản ánh sự phát triển của loài người. Nội dung phải mang tính tăng tiến. Chương trình học phải hiện đại lên cùng với sự phát triển của loài người.

Phương pháp dạy học phải gắn chặt với đối tượng và nội dung. Phương pháp là phương pháp của năng lực và hứng thú của trẻ em, của cá nhân đang trưởng thành, chứ không phải là phương pháp của người lớn- những kẻ đã trưởng thành. Phương pháp là sự trình bày rõ ràng biện pháp triển khai nội dung của một kinh nghiệm đang diễn ra để nó đem lại hiệu quả và kết quả nhiều nhất. Bởi vậy, không thể tách rời phương pháp khỏi nội dung.

3. Vấn đề vận dụng triết lý giáo dục của John Dewey vào giáo dục và dạy học ở Việt Nam.

3.1 Sự ảnh hưởng của triết lý giáo dục của Dewey.

          Tư tưởng triết lý giáo dục của John Dewey làm thay đổi nền giáo dục nước Mỹ thế kỷ XX, tư tưởng của ông cũng ảnh hưởng ra nền giáo dục nhiều nước trên thế giới. Ở châu Á, từ năm 1919, Dewey đã được mời đến thực hiện một loạt bài giảng tại trường Đại học Hoàng Gia- Tokyo, và ngay sau đó ( cũng trong năm 1919) ông được mời đến giảng dạy về triết học và giáo dục tại Bắc Kinh và Nam Kinh( Trung Quốc). Như vậy, cách đây non nửa thế kỷ, triết học giáo dục của John Dewey đã thâm nhập vào Nhật Bản và Trung Quốc.

Tại Việt Nam, năm 1940, Vũ Đình Hòe đã giới thiệu John Dewey trên báo Thanh Nghị nhưng sau đó tư tưởng triết học của Dewey gần như đã vắng bong suốt hai phần ba thế kỷ. Cái tên John Dewey nếu có được nhắc đến đâu đó ở Việt Nam thì cũng gắn với việc phê bình triết học của ông, gắn với sự phê phán triết học thực chứng của “ giai cấp tư sản”. Trong chương trình giáo dục thực nghiệm của Hồ Ngọc Đại hai thập niên gần đây, có sự âm thầm vận dụng tư tưởng của Dewey. Hiện nay, John Dewey đã được dịch và giới thiệu khá bài bản ở Việt Nam với các công trình của Phạm Anh Tuấn như: Dân chủ và giáo dục( NXB Tri thức, 2008), John Dewey về giáo dục( NXB Trẻ, 2012), Kinh nghiệm và giáo dục( NXB Trẻ, 2012) cùng với bản dịch: Cách ta nghĩ của Vũ Đức Anh( NXB Tri thức, 2013). Sự xuất hiện trở lại một cách bài bản hơn và đầy đủ hơn trước tác của Dewey ở Việt Nam hiện nay phải kể đến công lao của các dịch giả nói trên, và đặc biệt là công lao của quỹ dịch thuật Văn hóa Phan Chu Trinh và Nhà xuất bản tri thức. Tuy nhiên, sự vận dụng triết học giáo dục của John Dewey vào giáo dục và dạy học ở Việt Nam chưa được tiến hành bằng những công trình nghiên cứu chuyên sâu, chưa có các nội dụng vận dụng một cách tự giác được hiện thực hóa trở thành phổ biến.

3.2 Bối cảnh giáo dục Việt Nam hiện nay và sự vận dụng tư tưởng triết lý giáo dục của John Dewey.

3.2.1 Không thể không nhắc lại ở đây quan niệm về nhiệm vụ của triết học của Dewey: “ Nhiệm vụ chính của triết học là tìm cách hiểu được nguyên nhân sâu xa của sự rối loạn rất dễ nhận ra trong những thời điểm diễn ra sự biến động nhanh chóng của nền văn minh, hiểu được cái gì nằm ở đằng sau cái được bộc lộ ra bên ngoài, hiểu được chất đất nào nuôi dưỡng những gốc rễ của một trình độ văn minh cụ thể…”. Và “ triết học nhất định phải tham  gia vào việc khởi xướng những xu hướng vận động để rồi sau đó con người sẽ hoàn tất những xu hướng đó bằng hành động”. “ Bước trước tiên là phải thẳng thắn nhận ra thế giới mà chúng ta đang sống  lúc này là gì và nó sẽ đi về đâu. Ngay cả nếu chúng ta không làm được gì bằng sức lực đôi tay và cơ bắp thì chúng ta ít nhất cũng nhìn thẳng vào nó. Nhưng điều không nên làm là thêu dệt những bức màn chắn khiến cho chúng ta không nhận ra tình hình đang diễn ra thực sự”. “ Các nhà triết học ngày hôm nay có thể phân tích những vấn đề và đưa ra những giả thuyết phục vụ và gây ảnh hưởng tới nhiều người để rồi chúng có thể được trắc nghiệm bằng phương pháp duy nhất sau đây: Việc làm thực tiễn.”

Quan niệm về nhiệm vụ triết học của Dewey vừa nhắc lại trên đây có thể soi sáng cho giáo dục Việt Nam- một nền giáo dục đang bức thiết tìm đường thoát khỏi tình trạng lạc hậu đã kéo quá dài, bị kìm hãm trong quá nhiều năm bởi “ tư duy bảo thủ”, với một “ sức ì quá nặng”. Các nhà trí thức Việt Nam, các chuyên gia giáo dục, các cơ quan hữu trách Việt Nam đang cấp bách, “ ráo riết” tìm kiếm các giải pháp “ đổi mới căn bản, toàn diện” giáo dục. Chưa bao giờ triết lý giáo dục khoa học của John Dewey lại có giá trị với giáo dục Việt Nam như hôm nay. Nghiên cứu, vận dụng triết học giáo dục của John Dewey là phù hợp với nhiều điểm trong tư tưởng, nội dung bản Đề án “ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”   [7] của Đảng - Nhà nước - Bộ giáo dục Việt Nam.

Nhiều công trình bàn về giáo dục của John Dewey có thể góp phần củng cố cơ sở lý thuyết khoa học cho “ Nhiệm vụ và giải pháp” giáo dục trọng tâm mà bản “ Đề án” nói trên đề ra, như: “ đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc tư duy giáo dục”; “ đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của chương trình giáo dục( mục tiêu, nội dung, phương pháp…) theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học”; “ giáo dục con người vừa đáp ứng yêu cầu xã hội vừa phát triển cao nhất tiềm năng của mỗi cá nhân”; “ tập trung dạy cách học, cách nghĩ và tự học”; “ coi trọng sự phối hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”.

Nhưng điều đáng nói là cơ sở khoa học, tính nhân bản, nhân văn của triết lý giáo dục của John Dewey còn làm hậu thuẫn lâu dài cho nhiều nội dung đổi mới giáo dục Việt Nam. Bởi vậy, chúng ta rất cần thiết tiếp tục nghiên cứu vận dụng một cách thích hợp.

Việc vận dụng triết lý giáo dục của John Dewey cần được tiến hành một cách chuyên sâu, với các nội dung cụ thể đối với từng cấp độ của từng phương diện giáo dục…mới mong mang lại hiệu quả thực tiễn.

Trong phạm vi bài phát biểu này, chúng tôi xin dừng lại ở việc gợi mở, vận dụng triết lý giáo dục của John Dewey vào một số nội dung cơ bản của lý luận và  phương pháp dạy học bộ môn Văn ở trường trung học phổ thông.

3.2.2 Triết lý giáo dục của John Dewey với dạy học văn ở nhà trường trung học phổ thông.

Chúng ta đều biết cùng với công cuộc đổi mới giáo dục, đổi mới dạy học, việc đổi mới dạy học ở bộ môn Văn trong nhà trường trung học phổ thông đã được phát động mấy chục năm qua. Tuy vậy, công cuộc đổi mới dạy học văn vẫn gặp bế tắc. Nguyên nhân bắt nguồn từ hoàn cảnh xã hội, tư duy giáo dục lạc hậu, bảo thủ trong đó có tư duy về dạy học văn. Tư duy về dạy học văn lạc hậu một cách đồng bộ( Chương trình; nội dung; phương pháp; quan niệm về học sinh, về giáo viên; hoạt động thi cử; kiểm tra - đánh giá…).Chúng ta buộc phải đặt lại hàng loạt câu hỏi và trả lời cho các câu hỏi bằng các giả thuyết và thực nghiệm để đưa vào thực tiễn theo tinh thần “ thực dụng” của Dewey mới mong đổi mới thực sự dạy học văn trong nhà trường.

Vì tư duy trong dạy học văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam lạc hậu “ một cách đồng bộ” cho nên hệ thống vấn đề đặt ra cần giải quyết trong thực tiễn dạy học Ngữ văn ở Việt Nam hôm nay cũng phải “ đồng bộ”. Vận dụng nội dung triết lý giáo dục cụ thể của Dewey, chúng ta cần thiết phải đặt và trả lời những câu hỏi sau:

-         Cần phải có một chương trình môn Ngữ văn trung học phổ thông như thế nào cho phù hợp với sự phát huy “ kinh nghiệm” của người học trong “ bối cảnh học tập” ở Việt Nam trong đời sống xã hội hôm nay.

-         Cần có một cách tổ chức như thế nào để xây dựng một cộng đồng dân chủ đọc hiểu văn chương trong dạy học văn nhằm phát huy tối đa “ tài nguyên dạy học”?

-         Từ cách hiểu về “ kinh nghiệm và tư duy” của Dewey tiến tới việc lựa chọn cách tổ chưc, hướng dẫn học sinh tiếp nhận văn bản văn chương như thế nào?

-         Từ quan niệm “ tâm lý học chức năng” của Dewey về học sinh cần có một cách thức như thế nào để phát huy chủ thể học sinh trong dạy học văn?

-         Từ quan niệm của Dewey về phương pháp và nội dung trong giáo dục và dạy học cần tiến tới xây dựng một nội dung phương pháp mới trong dạy học Ngữ văn ở trung học phổ thông như thế nào?

-         Từ quan niệm dân chủ của Dewey về giáo viên trong giáo dục và dạy học cần tiến tới xây dựng một nội dung quan niệm về người giáo viên văn học ở Việt Nam trong thời đại ngày nay như thế nào?

Như trên đã nói, chưa bao giờ triết học thực dụng, triết lý giáo dục khoa học và dân chủ của nhà giáo dục vĩ đại John Dewey lại có ý nghĩa, có giá trị với thực tiễn giáo dục Việt Nam như hiện nay. Tuy nhiên, triết học và triết lý giáo dục của Dewey là một hệ thống chứa đựng nội dung phong phú và sinh động, việc học tập ứng dụng triết lý giáo dục của Dewey vào thực tiễn giáo dục Việt Nam phải được tiến hành một cách bài bản, khoa học, đặc biệt phải được chuyên sâu hóa với từng phân ngành, từng bộ môn…mới mong đạt được hiệu quả thực tiễn cao nhất. Làm được điều đó, đòi hỏi sự tiếp tục công sức của nhiều chuyên gia, nhiều nhà giáo, nhiều học viên và sinh viên… trong giới chuyên môn giáo dục của chúng ta.

Hà Nội, ngày 19 tháng 2 năm 2014

                                                                 TS. Nguyễn Ái Học

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 [1]    John Dewey, Phạm Anh Tuấn dịch, Bài nói chuyện của John Dewey tại Khoa Triết Đại học Columbia, New York, ngày 13/11/1947. Nguồn: Trung tâm nghiên cứu John Dewey thuộc đại học Nam Illinois (Southern Illinois University Carbondale 807 S. Oakland Carbondale, Illinois 6290 – http//www. http://www.siuc.edu/~deweyctr/about_influence.html)

[2]     John Dewey, Phạm Anh Tuấn dịch( 2008), Dân chủ và giáo dục. NXB Tri thức.

[3]     John Dewey, Phạm Anh Tuấn dịch( 2012), John Dewey về giáo dục. NXB Trẻ.

[4]     John Dewey, Vũ Đức Anh dịch( 2013), Cách ta nghĩ. NXB Tri thức.

[5]     Nông Duy Trường( 2012), Chủ nghĩa thực dụng trong giáo dục- Phương thức tư duy toàn diện- Học viện công dân, http://www. icevn.org/ vi/ print/ 393

[6]     Nguyễn Ước( 2009), Các chủ đề triết học, NXB Tri thức.

[7]     V.O.V.VN( Báo điện tử đài tiếng nói Việt Nam 2013), Báo cáo tóm tắt đề án đổi mới toàn diện giáo dục, http://vov.vn/ xahoi/ giaoduc/ bao- cao-tom- tat- de- an- doi- r

Post by: Vu Nguyen HNUE
19-10-2020