Lý luận văn học

Chủ nghĩa hiện sinh - Sự hình thành, diện mạo và ảnh hưởng


01-12-2021
Thuật ngữ “Existentialism”(Chủ nghĩa hiện sinh), có gốc từ “Existence”có nghĩa là sự tồn tại hay hiện hữu, nhưng không phải là sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng vật lý hay sự tồn tại của sinh vật mà là sự tồn tại của con người. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở Đức cuối chiến tranh thế giới thứ nhất với hai đại biểu lớn là Martin Heidegger (1889-1976) và Karl Jasper (1883 - 1969), sau đó lan nhanh sang Pháp tạo nên các tên tuổi như Jean Paul Sartre (1905-1980), Garbie Marcel (1889 -1978), Albert Camus (1913-1960), Merleau  Ponty (1908-1961). Ban đầu, chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu văn học phản ánh triết lý sống tự nhiên, tự tại, tự do bằng các hình thức tiểu thuyết, truyện, kịch, thi ca, nhật ký, tiểu luận, v.v... Theo dòng thời gian, triết lý sống đó được đa số người chấp nhận và lý luận hóa, trừu tượng hóa trở thành một trường phái triết học, một phong trào xã hội, ảnh hưởng sâu rộng trong lối sống giới trẻ.

Sự hình thành chủ nghĩa hiện sinh

Thuật ngữ “Existentialism”(Chủ nghĩa hiện sinh), có gốc từ “Existence”có nghĩa là sự tồn tại hay hiện hữu, nhưng không phải là sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng vật lý hay sự tồn tại của sinh vật mà là sự tồn tại của con người. Chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở Đức cuối chiến tranh thế giới thứ nhất với hai đại biểu lớn là Martin Heidegger (1889-1976) và Karl Jasper (1883 - 1969), sau đó lan nhanh sang Pháp tạo nên các tên tuổi như Jean Paul Sartre (1905-1980), Garbie Marcel (1889 -1978), Albert Camus (1913-1960), Merleau  Ponty (1908-1961). Ban đầu, chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu văn học phản ánh triết lý sống tự nhiên, tự tại, tự do bằng các hình thức tiểu thuyết, truyện, kịch, thi ca, nhật ký, tiểu luận, v.v... Theo dòng thời gian, triết lý sống đó được đa số người chấp nhận và lý luận hóa, trừu tượng hóa trở thành một trường phái triết học, một phong trào xã hội, ảnh hưởng sâu rộng trong lối sống giới trẻ.

Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh là hiện tượng xã hội tất yếu phù hợp với xu hướng phát triển tâm lý thời đại chống lại bản thể luận và nhận thức luận trong siêu hình học truyền thống, theo đó các triết gia mải mê tìm kiếm nguồn gốc vũ trụ, lý giải quá trình nhận thức mà bỏ quên thân phận và kiếp sống con người, không lý giải mối quan hệ phụ thuộc giữa cá nhân và xã hội, giữa tự do và tất yếu. Tuy khoa học kỹ thuật có mặt để giảm nhẹ sức lao động, nhưng rồi chẳng mấy chốc máy móc đã ép con người theo guồng quay và trở thành nô lệ của nó. Trong cuộc sống hiện đại, để tồn tại con người nhiều lúc phải tự đánh mất mình, bị đổi ngôi từ “nhân vị” thành “đại từ”, từ “chủ thể” thành “đối tượng”, từ “tôi” thành “nó”. Chung quy là buộc phải tha hóa đúng như nhận định của triết gia Nitschez: “Con người đã chết”.

Chủ nghĩa hiện sinh đồng thời là sự đáp trả tư tưởng tư biện trừu tượng triết học Hegel trong quá trình đi tìm các khái niệm phổ biến mà không quan tâm đến đời sống hiện thực của con người và chủ nghĩa lãng mạn trong văn học cổ điển đã lý tưởng hóa tình yêu và cuộc sống, dẫn dắt con người ngày càng xa rời hiện thực. Triết học truyền thống quá lý thuyết, chủ nghĩa lãng mạn văn học cổ điển lún sâu miêu tả những chuyện tình lâm ly bi tráng, trong khi đó con người sống càng ngày càng tự do và  thực dụng, giao tiếp giữa người và người trở nên cởi mở, thẳng thắn, đời sống con người đòi hỏi mọi vấn đề phải cụ thể hơn, sát thực hơn, dấn thân hay “hiện sinh hơn”.

Những tiền đề lý luận của chủ nghĩa hiện sinh

Chủ nghĩa hiện sinh không phải là sản phẩm nhất thời của thời hiện đại mà có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử. Quan niệm về đời người và thân phận con người đã manh nha trong triết lý Phật giáo khi Đức Phật Thích Ca đắc đạo, đứng giữa trời đất, chỉ tay nói: “Thiên thượng, Địa hạ, duy Ngã độc tôn”. “Tứ diệu đế”, tức bốn chân lý tối cao mà Đức Phật “ngộ” ra trong  những  năm tháng tu  hành khổ luyện đã phản ánh chân thành cụ thể đời sống con người và nỗi khổ của nó - đó là một cuộc hành trình tuân theo luật nhân quả “Sinh - Lão - Bệnh - Tử” và “Luân hồi, Nghiệp báo”. Triết lý nhân sinh Phật giáo đã đặt ra tình huống có vấn đề về con người, mà cốt lõi là làm gì và làm như thế nào để giải thoát con người khỏi “tam độc” (Tham, Sân, Si) đưa con người đến tự do, sống ung dung tự tại trong thế giới đầy vật dục và biến động.

Ở phương Tây cổ đại, triết giaSocrate với  luận điểm “con người hãy tự nhận thức chính mình”  đã mở đầu giai đoạn nhận thức con người. Theo ông, mọi tư tưởng và hoạt động phải làm gia tăng ý nghĩa của tồn tại con người, bởi vì, đối với con người vấn đề không phải là sống mà là sống tốt, sống có ích cho xã hội. Cái chết của ông là một đề tài và nguồn cảm hứng bất tận của triết học và văn học nghệ thuật chứng minh cho sự bi đát của một kiếp người khao khát làm điều thiện, nhưng bị tha nhân lên án, kết tội và bức tử.

Xét về phương diện văn học,Kinh thánh (The Bible) của Đạo Ky tô là một tiểu thuyết miêu tả đời sống nhân quần buổi khai thiên lập địa. Hình tượng Adam và Eva đại diện cho hai giới sống mù lòa, cô đơn buồn tủi đành phải ăn trái cấm để được sáng mắt, sáng lòng trên vườn địa đàng báo hiệu một lịch sử đau buồn và phạm tội của nhân loại. Abraham được miêu tả như một vị anh hùng sẵn sàng hiến tế đứa con trai yêu dấu cho Thiên chúa, hành vi “bất đắc dĩ” này phản ánh mâu thuẫn giằng xé nội tâm trong sự lựa chọn của con người giữa một bên là tình cảm, bên kia là lý tưởng cao thượng.

Đầu thời trung đại, Thánh Augustin đã tuyên bố: ''Hãy đi sâu vào bản thân, chân lý nằm trong nội tâm con người''. Bằng luận điểm đó, ông đã đi sâu phân tích thế giới nội tâm để qua đó khám phá nguồn gốc bất an và lo âu của con người. Tác phẩm  Xưng tội (Confession) của ông đã lý giải về nguồn gốc thần thánh của con người, về đời sống tâm linh phức tạp của nó, về mối quan hệ giữa người và thần, theo đó Chúa đã sáng tạo và chi phối đời sống con người, do vậy để đền đáp công ơn này, mỗi người cần phải dấn thân vào đời sống, phải yêu thương nhau, vì cái ác, sự đau khổ chỉ xuất hiện khi thiếu vắng tình yêu thương, khi con người hành động theo ý chí tự do nên bị sa ngã.

Đến thời khai sáng, triết gia người Pháp - Pascal trong tác phẩm Các suy tư (Pensses) đã phát biểu rằng, “con người chỉ là một cây sậy yếu ớt trong mọi tạo vật, nhưng là một cây sậy biết tư duy” [1,tr.325]. Qua việc đề cập đến tư tưởng tôn giáo và triết học, Pascal đã miêu tả sinh động việc nhân loại ngập chìm trong cảnh bao la vô tận của vũ trụ. Theo ông, “tất cả phẩm giá con người là ở tư tưởng”, nhưng còn một cái quan trọng hơn, cao hơn cả tư tưởng là con tim., bởi vì “con tim có lý lẽ riêng của nó mà lý trí không biết được” [1,tr.324]. Có thể nói, quan niệm của Pascal mở đầu cho một khuynh hướng mới về nghiên cứu thân phận con người - phát hiện tính mâu thuẫn trong giá trị người - một giá trị vừa cao thượng vừa thấp hèn, nhỏ mọn. “Con người - Pascal viết -  một vật mới lạ! Một quái vật, một sự hỗn mang, một sự mâu thuẫn, một điều kỳ diệu! Là quan tòa xét xử muôn loài và đồng thời là một con giun đất đần độn; là kho chân lý, và là bể chứa sự hoang mang và sai lầm; là niềm kiêu hãnh và là căn bã của vũ trụ” [1, tr.326]

Bước sang thời cận đại, văn hào Nga Dostoievsky - trong các tác phẩm văn học của mình, đặc biệt là trong  tiểu thuyết Tội ác và sự trừng phạt  đã miêu tả trạng thái tâm lý của các nhân vật dựa trên luận đề xuất phát: “Nếu không có thượng Đế, thì mọi điều đều có thể làm”. Luận đề này tuy đặt ra một tình huống giả định, nhưng thực tế đã khẳng định vai trò của thần học và tôn giáo trong việc củng cố đạo đức con người, phản ánh tính mâu thuẫn trong suy nghĩ và hành động của con người, đặt nền móng cho việc  nghiên cứu đời sống tâm lý. Khi trích dẫn luận đề này, triết gia hiện sinh người Pháp Paul Sactre cho rằng, “đây chính là điểm xuất phát của chủ nghĩa hiện sinh” [11,tr.44]

Chủ nghĩa hiện sinh hiện đại trực tiếp dựa trên quan niệm về con người của triết gia Đan Mạch - Kỉerkegaard (1813-1855), ông đã sớm nhìn thấy tính chất tư biện của Hegel khi triết gia này tìm cách thâu tóm mọi thực tại vào trong hệ thống triết học của mình và trong quá trình luận giải thế giới ông đã đánh mất yếu tố quan trọng là tồn tại người. Trong khi đó đây lại là điều cốt yếu của triết học, vì tồn tại trước hết phải là tồn tại của một cá thể người, sống, khát vọng, lựa chọn và dấn thân.Thuyết hiện sinh của Kierkegaard có thể tóm lược trong quan niệm cho rằng, “mọi con  người phải được hiểu như là sở hữu bản chất cốt yếu là người”.

Nhìn chung, sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh như một liệu pháp tâm lý giải tỏa những ức chế của đời sống xã hội đã bị giam hãm một thời gian dài, bị cầm tù bởi những cấm kỵ của chế độ phong kiến, lên án thói đạo đức giả và sự tha hóa con người trong xã hội biến động về khoa học công nghệ, mong ước cứu vớt con người trước thảm họa chiến tranh, đưa con người trở về ngôi vị làm người chân chính.

 Quan niệm hiện sinh về con người và thân phận con người

 Triết lý của chủ nghĩa hiện sinh xoay quanh chủ đề con người, trọng tâm là bản tính, thân phận, thế giới nội tâm, quan hệ giữa con người và hoàn cảnh sống.

 Quan hệ giữa tồn tại và bản chất của con người. Theo chủ nghĩa hiện sinh, tồn tại của con người có trước bản chất của nó. Định nghĩa con người là không thể, bởi con người không là gì khác ngoài sự hiện hữu hay hiện diện (của thể xác). Paul Sartre cho rằng, “con người trước hết phải hiện hữu, gặp gỡ nhau, xuất hiện ra trong thế giới đã, rồi theo đó tự định nghĩa mình. Con người, nếu không thể định nghĩa được, chính là vì trước hết nó là hư vô. Nó chỉ tồn tại sau đó, và sẽ là tồn tại như những gì nó sẽ tự tạo nên... Con người không chỉ tồn tại như nó được quan niệm, mà còn tồn tại như nó muốn thể hiện... Con người không là gì khác ngoài những gì mà nó tự tạo nên. Đó là nguyên tắc đầu tiên của thuyết hiện sinh. Đó cũng là điều mà người ta gọi là tính chủ thể... con người có một phẩm giá cao hơn hòn đá hay cái bàn... con người trước hết là một dự phóng (project) đang sống về mặt chủ thể, thay vì là một thứ rêu, một thứ nấm mốc hay một búp súp lơ... con người trước hết sẽ là những gì mà nó dự định tồn tại” [11,tr.32,33,34]. Như vậy, con người là tồn tại tối cao, vượt lên trên mọi tồn tại khác của vũ trụ. Tồn tại người có trước, sau đó mới hình thành bản chất người. Bản chất người hiện diện trong mọi cá thể riêng biệt, thể hiện qua hành động và tính cách của nó, không có bản chất người chung chung, trừu tượng.

Con người là một cá thể chịu trách nhiệm trước cộng đồng. Khi đã hiện hữu hay có mặt ở đời, con người phải dấn thân vào cuộc sống, suy nghĩ và hành động để bộc lộ thái độ sống của mình. Tuy nhiên, không phải mỗi cá nhân sống theo cách riêng của mình, mà phải hòa nhập vào cuộc sống chung cộng đồng. Do vậy, “nếu đúng là tồn tại đi trước bản chất, thì con người chịu trách nhiệm về những gì nó đang tồn tại. Bước đi đầu tiên của thuyết hiện sinh là...  lên con người toàn bộ trách nhiệm về sự hiện hữu của mình, nhưng không phải về cái cá nhân chật hẹp mà chịu trách nhiệm cho tất cả mọi người” [11,tr.34]. Con người là một tồn tại có lý trí, lý trí giúp con người tổ chức cuộc sống, từ mô hình gia đình, đến cộng đồng và toàn nhân loại. “Trách nhiệm của chúng ta lớn lao hơn nhiều so với những gì mà chúng ta có thể nghĩ đến, vì nó liên quan đến toàn thể nhân loại... Tôi chịu trách nhiệm với chính mình và với mọi người, và tôi đã sáng tạo ra một hình ảnh nào đó về con người mà tôi đã lựa chọn, khi chọn lấy chính tôi, tôi chọn con người” [11,tr.37]

Con người là một thực thể tự do và không có gì khác ngoài đời sống của chính mình. Con người cũng là một tồn tại, nhưng tồn tại người khác tồn tại vật ở chỗ, con người có lý trí, nên nó ít bị chi phối bởi quy luật tất yếu mà có tự do - tự do lựa chọn, tự do hành động. Jasper cho rằng, “chỉ mình con người có lịch sử, nghĩa là không sống bằng di sản sinh lý như loài vật mà còn sống bằng cả di sản tinh thần. Nên đời sống con người không trôi dạt theo tự nhiên mà phải được hướng dẫn bằng tự do” [9,tr.128]. Triết gia Paul Sactre khẳng định: “Không có thuyết tất định, con người là tự do, con người được tự do... và không có một bản tính con người nào khác để tôi có thể đặt nền tảng trên đó” [11,tr.44-56]

Tuy nhiên, vì con người sống trong xã hội, nên tự do hiểu theo nghĩa hiện sinh không phải là tự do tùy tiện mà tự do trong khuôn khổ tôn trọng sự tự do của người khác, bởi vì “trong khi muốn tự do, chúng ta phát hiện ra rằng tự do của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào tự do của những người khác, và tự do của những người khác phụ thuộc vào tự do của chúng ta” [11,tr.80]. Phụ thuộc hay thông cảm lẫn nhau giữa người và người là điều làm các nhà hiện sinh trăn trở, bởi theo họ thân phận làm người là phải vậy, cho nên “ta tự do là khi ta công nhận ta phải phục tùng một số yêu sách. Thỏa mãn những yêu sách ấy hay không là tùy ở quyền ta định đoạt. Nghĩa là chúng ta không thể phủ nhận rằng: chúng ta phải quyết định và mỗi khi quyết định là quyết định về chính mình. Nói tóm lại, chúng ta là những con người có trách nhiệm” [9, tr.124]

Con người là một sinh vật tồn tại trong những giới hạn nhất định, muốn vượt qua những giới hạn đó thì cần phải dấn thân. “Thân phận con người bị giam hãm trong những hoàn cảnh cố định... như chết, đau khổ, chiến đấu, lệ thuộc những cảnh ngộ bất ngờ, luẩn quẩn trong những xiềng xích của tội lỗi,... tức là những hoàn cảnh bất khả vượt và bất khả di dịch” [9,tr.64]

Như đã nói, bản chất con người nằm trong hành động của nó, nên “con người không là gì khác ngoài dự phóng của mình, nó chỉ tồn tại trong giới hạn có hiện thực hóa bản thân, vì vậy con người không là gì khác ngoài toàn bộ các hành vi của mình, không có gì khác ngoài đời sống của nó” [11, tr.58]. “Một người tự dấn thân vào cuộc sống, vẽ nên gương mặt của mình, và không có gì ngoài gương mặt ấy cả... một con người không có gì khác ngoài một loạt những công việc mà họ đảm nhiệm. Con người là tổng số, tổ chức toàn bộ các quan hệ cấu thành những công việc ấy” [11, tr.60]

 Quan hệ giữa con người và người khác (Tha nhân) là nguyên nhân của tha hóa và tâm lý lo âu. bản tính, con người là một thực thể tự do, nhưng do tội tổ tông truyền kiếp, con người luôn bị trói buộc vào hoàn cảnh sống, bị lệ thuộc vào xã hội và những người lân cận gọi là “người khác” hay tha nhân (Autre, Another). Tha nhân có từ thời khởi thuỷ loài người, khi Adam không thể sống một mình, Chúa đành phải tạo nên “người khác” là Eva. Từ đó Adam đành phải sống cùng Eva và mãi mãi vẫn thế, vì con người không thể sống cô độc. Tha nhân là niềm vui đồng thời là nỗi buồn của mỗi cá thể, là người tranh chấp, dẫm chân lên địa vị của ta. “Để có sự hiểu biết đúng thật về mình, tôi cần phải thông qua người khác. Người khác là cần thiết cho sự hiện hữu của tôi về chính mình. Trong những điều kiện ấy, tự cõi lòng, khi tôi phát hiện ra chính mình thì đồng thời tôi phát hiện ra người khác, như là một hữu thể tự do được đặt đối diện tôi, suy nghĩ về tôi và chỉ muốn ủng hộ hoặc chống đối tôi” [11,tr.67].

Hậu quả khi tiếp xúc với tha nhân là làm cho mỗi người trở nên xa lạ với chính mình hay bị “tha hóa” (Degeneration), tức sống khác với bản tính thật của mình. Tha hóa có nguồn gốc từ sự tôn thờ một mẫu người lý tưởng, một vị thánh nào đó làm cho người ta tự cuộn tròn mình lại mà không dám hành động. Tha hóa đồng thời là tự đánh mất nhân cách, tự biến mình thành một cái máy (con rối) vô hồn hành động theo tư tưởng chỉ đạo của người khác, của tập đoàn khác mà không thể nào dứt ra được.

Do tha hóa là làm khác mình nên tạo nên trong mỗi con người sự lo âu (Angoisse, Worry). Lo âu thể hiện trách nhiệm của con người trước thân phận của mình và đồng loại. “Vì mang thân phận làm người là đương nhiên chúng ta sống trong dục vọng, trong lo âu và bó buộc chúng ta phải cảm nghiệm những gì thuộc thế sự, bằng nước mắt cũng như bằng nụ cười” [9,tr.208]. Lo âu sớm muộn sẽ dẫn con người đến tuyệt vọng (Desespoir) và tiếp sau đó là những hành động liều lĩnh. Và lẽ dĩ nhiên chỉ có cái chết (The death) mới chấm dứt được lo âu. Nhưng cái chết lẽ dĩ nhiên sẽ chấm dứt sự hiện hữu của con người. Bởi vậy, khi còn sống con người cần phải dấn thân, tức phải sống hết mình, không mặc cảm với quá khứ, không toan tính chuyện tương lai, chỉ sống cho hiện tại. “Chúng ta càng có quyền hy vọng vào tương lai nếu ta càng dấn thân vào hiện tại, nghĩa là nếu ta biết tìm chân lý và những tiêu chuẩn giá trị trong thân phận con người” [9,tr.186]. Từ logic trên chủ nghĩa hiện sinh kết luận: Con người sống trong trần gian như những kẻ bị bỏ rơi, những kẻ lưu đày. Hiện diện trong cuộc đời mà con người không biết mình sẽ đi đâu, về đâu. Việc con người sinh ra ở đời giống như bị ném vào hoàn cảnh “bất đắc dĩ”, đành phải sống và hành động. Bởi vậy, chủ nghĩa hiện sinh nêu cao khẩu hiệu: ''Con người hãy tự cứu lấy chính  mình''. Vì không ai có thể cứu vớt được con người ngoài bản thân nó.

 Ảnh hưởng  của chủ nghĩa hiện sinh đến đời sống xã hội và văn học

Với mục đích muốn làm thay đổi quan niệm sống và lối sống con người hiện đại, ngôn ngữ phức tạp và luận chứng của chủ nghĩa hiện sinh hoàn toàn hướng vào tầng lớp trí thức có nhiệm vụ làm lay chuyển các định hướng duy khoa học và các ảo tưởng kỹ trị. Về phương diện này có thể nói chủ nghĩa hiện sinh đã đạt được những thành tựu nhất định, và mặc dù hiện nay nó hoàn toàn vô hiệu trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học, song những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh  đã đi vào tâm tính hiện đại. Điều đó trước hết có liên quan tới việc vạch ra tính giả dối của ý thức thỏa hiệp, tính kiên định của sự lựa chọn với tư cách là điều kiện để hình thành cá tính đích thực và khắc phục niềm tin thơ ngây của nhân loại vào tiến bộ khoa học - kỹ thuật.

Là một trào lưu chuyển tải tư tưởng bằng tác phẩm văn học, chủ nghĩa hiện sinh lan nhanh và ảnh hưởng sâu rộng đến giới trẻ phương Tây, tạo nên những phong trào rộng rãi trong cuộc sống phương Tây vào những năm 60 - 70 thế kỷ XX như “Hippy”, “Anti-State”, “Anti-Modern”, “Sexual Liberation”. Các phong trào này đã tạo nên một cuộc sống sôi động trong giới trẻ, góp phần khẳng định tiến bộ xã hội trong vấn đề bảo vệ nhân quyền, đề cao các quyền tự do, nhất là tự do ngôn luận.

Ở Việt Nam, một cách tự phát, chủ nghĩa hiện sinh đã manh nha trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều khi ông miêu tả thân phận của những thiếu nữ được tuyển vào cung Vua phủ chúa chờ ngày ân ái. Thông qua đó, tác giả nói lên thân phận “bèo dạt mây trôi” của kiếp làm người nói chung: “Thảo nào khi mới chôn nhau / Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra/ Khóc vì nỗi thiết tha sự thế/ Ai bày trò bãi bể nương dâu/ Trắng răng đến thuở bạc đầu...Trăm năm còn có gì đâu - Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì” [12, tr.60]. Tiếp theo Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là một thi phẩm phản ánh đời sống “hồng nhan bạc phận” của nàng Kiều với những tiếng kêu xé lòng đứt ruột: “Trăm năm trong cõi người ta/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng...Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” [2, tr.146]. Mười lăm năm sống lưu lạc của nàng Kiều là một bản cáo trạng lên án chế độ phong kiến đương thời, một chế độ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, coi thường thân phận của người phụ nữ, xem họ thân phận họ như những hạt mưa rơi.

Từ phương Tây, chủ nghĩa hiện sinh theo gót chân quân xâm lược Pháp  đến Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX, hiện diện trên thi đàn như thơ say của Vũ Hồng Chương, thơ mới, phản ánh tình yêu hiện đại của các thi sĩ tiền chiến, đặc biệt là thơ Xuân Diệu. Ở miền Nam, dưới thời tạm chiếm, chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành mốt sống của thanh niên đô thị. Tư tưởng hiện sinh phản ánh trong hàng loạt các tác phẩm văn học, điển hình là các tác phẩm của Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, v.v... đã nói lên tinh thần lo âu, tuyệt vọng, nổi loạn, phản kháng của tầng lớp thanh niên “sống giữa hai làn đạn”.Trên một khía cạnh nào đó có thể nói chủ nghĩa hiện sinh ở miền nam Việt Nam trước giải phóng đã góp tiếng nói phản kháng sự xâm lược của Mỹ như phong trào “dậy mà đi” phản ánh sự dấn thân của tuổi trẻ trong công cuộc giải phóng đất nước.

Sau công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, với phương châm “cởi trói cho văn học nghệ thuật”, chủ nghĩa hiện sinh có cơ hội thể hiện nguyên hình trên diễn đàn văn học với các gương mặt tiêu biểu như: Nguyễn Quang Lập (Một nửa đời đen - trắng, Đời cát), Nguyễn Minh Châu (Phiên chợ Giát), Phạm Thị Hoài (Thiên sứ, Mê lộ, Man nương), Dương Thu Hương (Bên kia bờ ảo vọng, Những thiên đường mù), Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh), Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm tiết, Vàng lửa, Tướng về hưu, Thương nhớ đồng ơi...), Chu Lai (Ăn mày dĩ vãng), Dương Hướng (Bến không chồng), Nguyễn Thị Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận), Đỗ Hoàng Diệu (Bóng đè, Vu quy...), v.v... Các tác phẩm văn học này đã góp thêm tiếng nói đa dạng cho việc đổi mới của văn học nước nhà, phản ánh  một góc buồn tủi, cô đơn của cuộc sống, phơi bày thế giới nội tâm giằng xé của con người trong một thời đại đầy lo âu, mâu thuẫn và biến động từng ngày của khoa học công nghệ. Thực ra chủ nghĩa hiện sinh trong văn học là sự nối tiếp của chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng với tinh thần tự nhiên, “vô tư”, thẳng thắn và cay nhiệt hơn, nếu không nói là đôi khi có ác ý muốn “hạ bệ những thần tượng”, đưa thần tượng (Idol) và những lý tưởng chính trị - xã hội trở về cuộc sống đời thường, đúng như nghĩa câu cách ngôn mà Karl Marx yêu thích “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.

Lê Công Sự

http://www.vanhoanghean.com.vn/

Tài liệu trích dẫn và đọc thêm

[1] Forrest  E. Baird, Tuyển tập danh tác triết học từ Plato đến Derida, Nxb. Văn hóa thông tin 2006

[2] Nguyễn Du, Truyện Kiều, Nxb. Văn học 2015

[3] Nguyễn Tiến Dũng, Chủ nghĩa hiện sinhLịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam, Nxb. CTQG 1999.

[4] Trần Thái Đỉnh, Triết học hiện sinh, Nxb. Văn học 2012

[5] Phan Quang Định, Toàn cảnh triết học Âu - Mỹ thế kỷ XX, Nxb. Văn học 2008

[6] Lưu Phóng Đồng, Triết học phương tây hiện đại, gồm 4 tập, Nxb.CTQG 1994

[7] Nguyễn Hào Hải, Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại, Nxb. Văn hóa thông tin 2001

[8] Heidegger, Đối thoại triết học - Buông xả thanh thản, Nxb. Văn hóa Sài Gòn 2007

 [9] Karl Jasper, Triết học nhập môn, Nxb. Thuận hóa 2004.

[10] Samuel Enoch Stumpf, Lịch sử triết học và các luận đề, Nxb. Lao động 2004

 [11] Jean Paul Sartre, Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản, Nxb. Tri thức 2016

 [12] Nguyễn Gia Thiều, Cung oán ngâm khúc, Nxb. Văn học 2010

 [14] Lê Thành Trị, Hiện tượng luận về hiện sinh, Nxb. Sài Gòn 1969./.

Post by: admin
01-12-2021