Văn học Việt Nam hiện đại

NỖI BUỒN CHIẾN TRANH VIẾT VỀ CHIẾN TRANH THỜI HÂU CHIẾN TỪ CHỦ NGHĨA ANH HÙNG ĐẾN NHU CẦU ĐỔI MỚI BÚT PHÁP


01-10-2021
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một tác phẩm có số phận đặc biệt. Xuất bản lần đầu tiên năm 1990 với tiêu đề do các biên tập viên nhà xuất bản Hội Nhà văn lựa chọn - Thân phận của tình yêu - chỉ một năm sau đó, cuốn sách đầu tay của nhà văn cựu chiến binh thuộc những thế hệ sinh viên đầu của Trường viết văn Nguyễn Du được tái bản với tiêu đề của chính tác giả - Nỗi buồn chiến tranh.

 

Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn

                                                            Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo[1]

 

L’écrivain est au service de ceux qui subissent l’histoire[2]

 

            Phạm Xuân Thạch 

                                      (Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội 

                                               và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)

 

Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là một tác phẩm có số phận đặc biệt. Xuất bản lần đầu tiên năm 1990 với tiêu đề do các biên tập viên nhà xuất bản Hội Nhà văn lựa chọn - Thân phận của tình yêu - chỉ một năm sau đó, cuốn sách đầu tay của nhà văn cựu chiến binh thuộc những thế hệ sinh viên đầu của Trường viết văn Nguyễn Du được tái bản với tiêu đề của chính tác giả - Nỗi buồn chiến tranh. Cũng trong năm đó, cuốn sách được giải thưởng của Hội nhà văn, một trong những giải thưởng văn chương quan trọng nhất ở Việt Nam. Khác với những tiểu thuyết khác cùng được trao giải trong năm này (Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Bến không chồng của Dương Hướng), sự lựa chọn của Hội đồng xét giải dành cho tác phẩm của Bảo Ninh đã khiến cho trường hợp Nỗi buồn chiến tranh trở thành một trong những lựa chọn bị tranh cãi nhiều nhất trong số các giải thưởng văn chương của tổ chức văn học này cho đến hôm nay. Tính phức tạp của những đánh giá về tác phẩm thể hiện ngay từ cuộc tọa đàm về cuốn tiểu thuyết do Hội Nhà văn và Tuần báo Văn nghệ tổ chức trong năm 1991 và một loạt các bài viết sau cuộc tọa đàm. Bên cạnh những ý kiến đánh giá cao tác phẩm về nội dung và đặc biệt hình thức nghệ thuật (của Đỗ Đức Hiểu, Nguyên Ngọc, Trần Đình Sử…), có không ít nhà phê bình coi cuốn sách của Bảo Ninh là “điên loạn”, “rối bời”, “lố bịch hóa hiện thực”, “bôi nhọ quân đội” (bài viết của Đỗ Văn Khang trên tuần báo Văn nghệ số 43, ra ngày 26/10/1991). Và sau đó là sự im lặng và lãng quên. Cuốn sách hầu như vắng bóng trong các công trình, các tác phẩm phê bình và các chuyên luận về văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Trong khi đó, ngay sau khi dành được giải thưởng ở Việt Nam, cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới và xuất phát từ nhiều mục đích cũng như hệ giá trị khác nhau, được đánh giá một cách nồng nhiệt. Tờ Independent, một trong những nhật báo có uy tín của nước Anh đã nhận xét về cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh: “Vượt ra ngoài sức tuởng tượng của người Mỹ, Nỗi buồn chiến tranh đi ra từ chiến tranh Việt Nam đã đứng ngang hàng với cuốn tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại của thế kỷ, Mặt trận phía Tây vẫn yên tĩnh của Erich Maria Remarque (…). Một cuốn sách viết về sự mất mát của tuổi trẻ, cái đẹp, một câu chuyện tình đau đớn… một thành quả lao động tuyệt đẹp”. Hơn mười năm sau lần xuất bản đầu tiên, năm 2003, cuốn sách của Bảo Ninh lại lặng lẽ được tái bản và xuất hiện trong đời sống văn học ở Việt Nam : với tiêu đề Nỗi buồn chiến tranh (NXB Hội Nhà văn, trong tuyển tập Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ Đổi mới - một sự thừa nhận?) và Thân phận của tình yêu(NXB Phụ nữ). Lặng lẽ bởi ngoài các mục tin sách và thống kê doanh thu sách bán chạy của một vài tờ báo, cuốn sách hoàn toàn vắng bóng trong đời sống phê bình báo chí và đại học. Như vậy là gần mười lăm năm sau khi cuốn tiểu thuyết ra đời, những câu hỏi đặt ra từ chính tác phẩm dường như vẫn còn bị bỏ ngỏ. Là một cuốn tiểu thuyết về tình yêu bi thảm trong chiến tranh - về Thân phận của tình yêu - hay là một tiểu thuyết về Nỗi buồn chiến tranh - những suy nghiệm của một cá nhân, một nhân vật có vấn đề (un héros problematique - khái niệm của Lukacs) về thực tại lịch sử? Là một cách tân nghệ thuật dẫn tới một độ chênh với “tầm đón nhận” của công chúng và giới phê bình hay là một cuốn sách suy đồi về chiến tranh? Những câu hỏi vẫn còn đó và trong tất cả mọi trường hợp, sự im lặng hay lảng tránh không phải là một câu trả lời lý tưởng. H.G. Gadamer từng khẳng định: “Chúng ta chỉ thực sự hiểu một văn bản nếu chúng ta thực sự đã hiểu câu hỏi mà văn bản đó trả lời”. Trước một hiện tượng văn học phức tạp như Nỗi buồn chiến tranh, chúng tôi giả định một cách đọc của riêng mình, ngõ hầu có thể chạm được đến bản chất của tác phẩm, chạm đến “câu hỏi mà văn bản đó trả lời” cũng như những câu hỏi đặt ra từ chính tác phẩm. Sự bùng nổ của những trường phái phê bình trong thế kỷ XX, đặc biệt ở các nước phương Tây, mở ra cho người nghiên cứu muôn vàn những ngả đường dẫn đến tác phẩm văn học. Dẫu vậy, cũng chính sự bùng nổ đó cũng khẳng định một thực tế : không một phương pháp nào có đủ khả năng trả lời được đầy đủ các câu hỏi đặt ra từ văn bản. Trước thực tế đó, một mặt cách đọc của chúng tôi sẽ đi thẳng vào tháo dỡ cấu trúc hình thức và từ đó khôi phục lại trường ngữ nghĩa của văn bản tiểu thuyết. Đồng thời, xuất phát từ một lối “đọc sâu” (close reading) cấu trúc văn bản chúng tôi đề xuất một thao tác đọc liên văn bản (intertextualité) tiểu thuyết của Bảo Ninh trong hệ thống sáng tác của chính anh và trong đời sống văn chưong giai đoạn đầu thời kỳ Đổi mới, đặc biệt, trong sự đối chiếu với những cây bút tiêu biểu của văn học chiến tranh thập niên 80 (Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Minh Châu…). Với một cách đọc như vậy, chúng tôi giả định có thể chạm đến tầng ngữ nghĩa thực sự ngõ hầu chạm đến những “câu hỏi còn bị treo lại” về một trong những tác phẩm phức tạp nhất của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới mà phác hoạ ra được những thay đổi có tính quy luật của văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh ở Việt Nam. 

  1. Từ những thách thức của lối viết. 

Có thể khẳng định, ở thời điểm Nỗi buồn chiến tranh ra đời, Bảo Ninh là một trong những cây bút quan trọng góp phần làm nên một cuộc cách mạng trong nghệ thuật tiểu thuyết ở Việt Nam. Anh đã chuyển dịch toàn bộ phạm vi tồn tại của nhân vật trung tâm từ đời sống xã hội vào đời sống tâm lý. Nhân vật chính trong tiểu thuyết của anh không phải là một con người hành động, anh không mô tả, kể, tái hiện lại đời sống xã hội của một con người (tồn tại trong xã hội, tiếp xúc với những nhân vật khác, xung đột và giải quyết xung đột … ) để từ đó khái quát những vấn đề nhân sinh. Trái lại, anh tái hiện lại một thế giới tâm lý đầy những dằn vặt, ẩn ức (trong đó có cả những ẩn ức tình dục - một yếu tố cho đến thời điểm đó không phải là quen thuộc đối với văn học Việt Nam), những hồi ức và những ám ảnh. Toàn bộ thiên truyện được xây dựng trên một tình huống giả định về một tự sự hai lần hư cấu. Trước hết, đó là cuốn tiểu thuyết đầu tiên và duy nhất của nhà văn - cựu chiến binh Kiên về tuổi thơ, tuổi trẻ, những năm tháng trận mạc, cuộc đời hậu chiến và chính hành trình viết tiểu thuyết của anh. Đó là một cuốn tiểu thuyết được sáng tạo trong những cơn dằn vặt tinh thần và những xung đột nội tâm khủng khiếp nhưng câm lặng của Kiên, một cuốn tiểu thuyết mãi mãi không bao giờ được hoàn thành. Ngày Kiên rời bỏ khu phố và “ngọn hải đăng Ha le” – căn phòng viết của anh - cuốn tiểu thuyết chỉ là một đống bản thảo, không đánh số trang, bị xáo tung và nhiều trang bị đốt. Đến lượt mình, cuốn sách lại được người trần thuật (xưng tôi, lộ diện trong phần cuối cùng của tiểu thuyết – mà qua sự hé lộ ít ỏi về tiểu sử, người đọc có thể biết rằng cũng là một nhà văn - cựu chiến binh) tiếp nhận,  sắp xếp lại, định dạng và hoàn chỉnh lại trong dạng thức cuối cùng. Tình huống hư cấu này chi phối toàn bộ nguyên tắc kết cấu của tác phẩm khiến cho Nỗi buồn chiến tranh một mặt mang dáng dấp của một tiểu thuyết dòng tâm tưởng (nhưng không trong dạng thức thuần tuý nhất của thể loại này như những tác phẩm của M. Proust, J. Joyce hay W. Woolf); một mặt là một tiểu thuyết trong tiểu thuyết - hay chính xác hơn tiểu thuyết về tiểu thuyết (tương tự như Bọn làm bạc giả của A. Gide)[3].

Những dạng thức kết cấu nói trên khiến cho Nỗi buồn chiến tranh trở thành một thách thức đối với việc đọc của công chúng ở Việt Nam ít nhất cho đến thời điểm đó. Nó không có những xung đột nguời - người (ta - địch, người xấu - người tốt, người lạc hậu - người tiến bộ …) xuyên suốt toàn bộ thiên truyện. Nó không được phân chia thành những chương phần với những đường dây cốt truyện mạch lạc. Về cơ bản, toàn bộ tiểu thuyết được chia thành 7 phần dựa trên các cách trang thống nhất trong cả bốn bản in (năm 1990, 1991 và hai bản năm 2003). Những hồi ức của cựu chiến binh Kiên bị cắt vụn và phân tán trong các phần của văn bản. Có những hồi ức xuất hiện ngay từ trong phần đầu tiên (hồi ức về cái chết của người nữ giao liên Hoà, về nhà ga Thanh Hoá và Phương) như là những khúc ouverture báo hiệu những chủ đề chính của tác phẩm (cái chết của những người lính và sự huỷ diệt tình yêu…) và chỉ được tái hiện trọn vẹn trong những phần cuối cùng của thiên truyện. Và đa phần những hồi ức không được gắn bó theo một trật tự nhân quả hoặc thời gian đảm bảo cho sự trong sáng của kết cấu. Nó tương hợp với đời sống tinh thần của Kiên, một thế giới tâm lý đầy những ám ảnh và những dằn vặt khủng khiép. Nó tạo nên cho người đọc một thứ cảm giác đúng như cảm giác của người kể chuyện khi lần đầu tiên tiếp xúc với toà núi non bản thảo của Kiên: “Một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời”. 

Trong tiểu thuyết của Bảo Ninh, sự thách thức đối với việc đọc còn được gia tăng bởi tính chất gây sốc của những chất liệu cấu thành nên tiểu thuyết. Sự bạo hành tràn ngập trong tác phẩm. Và song hành với bạo hành là những cái chết. Có cái chết buồn thảm như cái chết của cha và dượng Kiên hay cái chết của Can, người lính đào ngũ; có cái chết bi thảm như cái chết của những người đồng đội của Kiên trong chiến tranh. Có những trường đoạn miêu tả cái chết (trận thảm sát xóa sổ cả một đơn vị “mùa khô đầu tiên sau Hiệp định” - xuất hiện ngay từ phần đầu tiên của tiểu thuyết). Có những hình ảnh trở thành một thứ âm bản của sử thi chiến tranh (mùa mưa, những cánh rừng đại ngàn, thời kỳ bài bạc, ma tuý “hồng ma”, mối quan hệ dị thường giữa những người lính trinh sát trong đơn vị của Kiên và những cô gái thủ kho trong rừng già…). Có hình ảnh buồn bã về ngày chiến thắng trĩu nặng những dự cảm kinh hoàng về sự tổn hại của nhân tính trong nhà ga hàng không Tân Sơn Nhất. Và đồng thời, lần đầu tiên, những ẩn ức và đời sống tình dục được người viết đưa vào tác phẩm và trở thành một chiều kích không thể quy giản trong cuộc đời của nhân vật chính. 

Vậy phải chăng Nỗi buồn chiến tranh là một “tiểu thuyết đen” về chiến tranh, bấn loạn, “rối bời” và đầy những hình ảnh kinh hoàng về chiến tranh giải phóng dân tộc và những mảnh đời chiến bại của những cựu chiến binh trong những năm tháng hậu chiến ? 

2. Những mạch ngầm văn bản. 

Như đã trình bày, Nỗi buồn chiến tranh là một tiểu thuyết hướng nội và chủ quan hoá triệt để. Những xung đột và những vận động cơ bản của tiểu thuyết đều diễn ra trong thế giới nội tâm của nhân vật. Mở ra bằng mùa mưa đầu tiên ở Cánh Bắc sau chiến tranh và cuộc hành trình đi tìm hài cốt đồng đội của Kiên trong những cánh rừng già, những dự cảm của Kiên báo hiệu những xung đột cơ bản trong cuộc đời anh. Trước hết đó là xung đột giữa một ham muốn trở về với cuộc sống hoà bình và quên đi quá khứ với dự cảm về chuyện “quên thật là khó”, “chẳng biết đến bao giờ thì lòng mình mới có thể nguôi nổi, trái tim mình mới thoát khỏi gọng bàn tay xiết chặt của những kỷ niệm chiến tranh. Những kỷ niệm có thể là êm đềm, có thể là ác hại nhưng đều đã để lại những vết thương mà tới bây giờ một năm đã qua, hay mười năm, hay hai mươi năm nữa vẫn còn đau, đau mãi”. Dự cảm đó cụ thể dần thành ý thức về một cuộc đời “khác nào con thuyền bơi ngược dòng sông không ngừng bị đẩy lùi về dĩ vãng” mà “lòng tin và lòng ham sống không phải là những ảo tưởng mà là nhờ sức mạnh của hồi tưởng”. Tiếp đó là xung đột giữa những “tín niệm văn chương và nhân sinh sâu bền nhất của anh” và sự thôi thúc bên trong của việc viết, một thứ “nghịch lý hiểm nghèo của bút pháp”. Anh cảm thấy bị thôi thúc bởi việc viết, “viết sao cho xao xuyến nổi lòng dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu, về nỗi buồn, sao cho có thể truyền được vào cuộc sống đương thời luồng điện của những cảm xúc  chỉ có thể diễn đạt bằng thì quá khứ và quá khứ của quá khứ” nhưng đồng thời đó lại là một cái viết đối lập với tất cả những gì anh đã sáng tạo và cố gắng sáng tạo. Hai xung đột nội tâm cơ bản trong cuộc đời của  Kiên được anh ý thức một cách thiêng liêng thành một “thiên mệnh” chi phối sự sinh tồn của anh trong những ngày hậu chiến, “thiên mệnh” dẫn dắt anh trong hai cuộc phiêu lưu cuối cùng cả cuộc đời: hành trình tìm lại và phục sinh quá khứ và hành trình sáng tạo văn chương. 

Nỗi buồn chiến tranh là hành trình đau đớn của một số phận dị kỳ tìm lại quá khứ của mình. Suốt dọc hành trình sống của Kiên, số phận giống như một thứ lực ly tâm hất văng những người thân thiết nhất ra khỏi cuộc đời anh. Hoặc họ lặng lẽ rời bỏ khỏi anh (Mẹ, Phương…) hoặc cái chết giật họ khỏi cuộc đời anh (cha, dượng, những người đồng đội…). Những cái chết và khoảng trống tâm hồn để lại sau những cái chết chính là nguồn động lực thúc đẩy cuộc hành trình ngược về quá khứ của Kiên - cuộc hành trình tìm lại ý nghĩa ẩn dấu sau những cái chết buồn bã / hoặc đau đớn của những người thân, người đồng đội. Toàn bộ cuộc đời hậu chiến của Kiên bị trôi đi trong cuộc hành trình “đi tìm thời gian đã mất” đó, từ những dự cảm ban đầu cho đến những giác ngộ của anh về nỗi buồn chiến tranh(phần 3) và chân lý về những cái chết trong chiến tranh (phần 4).

Song song với hành trình tâm tưởng tìm về ký ức là cuộc hành trình của sáng tạo văn chương. Mạch vận động này được khởi phát từ phần thứ hai của tiểu thuyết từ những thôi thúc nội tâm về một cái viết kỳ lạ gắn liền với một “thiên mệnh” của cuộc đời, một cái viết xung đột với tất cả những tín điều văn chương mà Kiên vẫn tin tưởng và theo đuổi. Chỉ đến những phần cuối cùng của thiên truyện thì thiên chức ấy mới được hiển hiện trong một sự thức nhận toàn vẹn những chân lý về chiến tranh, về trách nghiệm của chính anh - người sống sót sau chiến tranh - trong cuộc đời hậu chiến và về ý nghĩa thực sự của nghề viết văn. Không phải vô lý khi Kiên thừa nhận “cuốn tiểu thuyết đầu tay cực kỳ bấp bênh và còn vô cùng dang dở này như là một cuộc phiêu lưu cuối cùng trong cả cuộc đời làm lính của anh, đồng thời là một sự thách thức nghiêm trọng nhất đối với sự sinh tồn của anh không chỉ trên tư cách một người cầm bút”. Đối với Kiên, một người sống sót qua những khủng khiếp của cuộc chiến, sống nghĩa là mang món nợ với những người đã khuất, đúng như anh thú nhận: “Thực ra thì trong chiến tranh Kiên được hưởng nhiều may mắn hơn thời bình, bởi vì trong chiến tranh anh đã được sống, chiến đấu, trưởng thành lên bên những người đồng chí thật tốt. Tuy nhiên, giá của sự may mắn ấy là anh đã lần lượt mất hết những người bạn, người anh em, người đồng đội chí thiết nhất. Họ bị giết ngay trước mắt Kiên hoặc là đã chết trong vòng tay anh. Nhiều người đã chết để gỡ cho tính mạng Kiên. Nhiều người hy sinh bởi lỗi lầm của anh”. Và như vậy, đối với Kiên, sống gắn liền với trách nghiệm nói thay lời trăn trối của những nguời đã chết trong chiến tranh, những “đồng  đội thân yêu và ruột thịt, vô số và vô danh, những liệt sĩ của lòng nhân, đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến”, để làm cho tiếng nói chung của một thời đại “đau thương nhưng huy hoàng, những ngày bất hạnh những chan chứa tình người” không bị chìm vào quên lãng và sự vô tình của “nền hòa bình thản nhiên” hậu chiến. “Thiên mệnh” ấy chính là sức mạnh duy nhất duy trì cuộc sống thời hậu chiến của Kiên, là sức mạnh níu kéo anh lại với cuộc đời trong những phút giây cận kề cái chết và sự suy sụp tinh thần (phần 3). Công cụ duy nhất của anh để thực hiện chức trách ấy chính là văn chương. Đó chính là con đường khiến cho Kiên trở thành một nhà văn “tồn tại đến trót đời với thiên chức là một cây bút của những người đã hy sinh, là nhà tiên tri của những năm tháng đã qua đi, người báo trước thời quá khứ”. Có thể nói, đối với Kiên, thiên chức văn chương cũng chính là thiên chức cuộc đời.

  1. Thế giới nhân vật - biểu tượng và ý nghĩa. 

Nhân vật là một chất liệu có tính bản thể của tự sự. Tương tự như văn bản, chất liệu đó có thể được soi sáng từ nhiều chiều kích khác nhau. Nhân vật của một tự sự có thể được hành xử như một thực thể sống, có đời sống tâm lý và đặc biệt những ẩn ức tâm lý được dấu kín[4]. Nhân vật cũng có thể là hình chiếu của những dồn nén tâm lý hoặc sự phản chiếu thế giới tư tưởng của tác giả hoặc được coi như hình chiếu của đời sống xã hội. Dẫu vậy, trước hết, nhân vật - chính xác hơn thế giới nhân vật - là một cấp độ chất liệu của văn bản và trong ý nghĩa đó, nếu như văn bản cógiá trị tạo sinh nghĩa độc lập thì nhân vật cũng cần phải được ứng xử như một hệ thống có quan hệ nội tại và giá trị của các yếu tố được tạo sinh từ mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên hệ thống này. Từ nhận thức đó, chúng tôi đề xuất một cái nhìn có tính ký hiệu học về nhân vật tự sự đối với tác phẩm của Bảo Ninh.

Có ba tuyến nhân vật chạy song song trong cuộc đời của Kiên : những người phụ nữ, những người đồng đội và những người thân (cha, mẹ, dượng). Đa phần trong số họ hiện diện trong hình hài của những ký ức, không tiểu sử, thậm chí, có những nhân vật chỉ là những tiếng nói vang vọng trong lương tâm của Kiên. Trong hành trình tâm tưởng của Kiên, ký ức về những người đồng đội luôn gắn liền với cái chết. Hoặc họ là nạn nhân của cái chết, hoặc họ là người gây ra cái chết. Cái chết phản ánh bản chất hai mặt của chiến tranh. Nó gắn liền với bạo lực,thứ bạo lực tăm tối hủy diệt con người “chà đạp, hành hạ, (…), làm nhục, (…), giết chết, (…) chôn vùi, quét sạch, tuyệt diệt”, nó chà đạp lên nhân tính của con người và hủy diệt “những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi dương”, nó khơi dậy bạo lực và sự tàn bạo trong con người, sự dửng dưng với cái ác. Ở phương diện đó, vết thương khủng khiếp nhất mà chiến tranh để lại không chỉ là sự thương tổn và cái chết cụ thể mà quan trọng hơn, là sự chà đạp lên nhân tính. Ở một phía khác, cũng chính cái chết của những người đồng đội phản ánh một phương diện khác của chiến tranh : cái đẹp của tình người. Điều đó được đúc kết trong một chân lý thật đơn giản:  “những con người xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi đời này nhưng đã lẳng lặng chấp nhận quy luật đơn giản của chiến tranh : mình chết thì bạn mình sống !”. Tiếng nói, kỷ niệm và những hồi ức của những đồng đội đồng vọng vào dòng tâm tư của Kiên, chiếu dọi vào hiện thực tàn bạo của chiến tranh, làm phát lộ nỗi đau đích thực của con người trong chiến tranh - nỗi đau của nhân tính (mà trong đó vang vọng lời cảnh báo của người lính ở phi trường Tân Sơn Nhất trong ngày giải phóng: “liệu mà coi chừng nhân tính”) - và làm ngời sáng vẻ đẹp của tình người trong chiến tranh.

Một tuyến nhân vật chủ đạo khác trong Nỗi buồn chiến tranh là những người phụ nữ đi qua cuộc đời Kiên. Trong tiểu thuyết, người phụ nữ là hiện thân của tình yêu – đối âm của chiến tranh. Tình yêu gắn liền với cái đẹp, với nhân tính là cái đối lập với bạo lực hủy diệt nhân tính. Nếu như chiến tranh đánh thức trong Kiên phần tàn tạo, biến anh thành một cỗ máy, “âm thầm và mệt mỏi” – nghĩa là vô cảm -  của sự giết chóc thì những người phụ nữ từ Hạnh cho đến Phương, đến người nữ y tá trong Điều trị 8 (một hóa thân của Phương) lại đánh thức trong anh tình yêu, một tình yêu mà cho đến tận cuối cuộc đời anh, vĩnh viễn không trọn vẹn. Những người phụ nữ hóa thân thành những tiếng gọi níu kéo Kiên không chỉ với cuộc sống và cả với cái thiện, nhân tính và tình người. Trong khoảnh khắc khi anh chuẩn bị thực hiện cuộc hành quyết những người lính đối phương, chính tiếng nói của Phương (“Anh sẽ giết nhiều người chứ ?” “Sẽ thành anh hùng chứ?”) đã níu kéo anh ở lại ở phía bên này của cái thiện. Trong những khoảnh khắc tuyệt vọng của cuộc đời, người phụ nữ hiển hiện như nơi trú ẩn của cuộc đời anh (hiển hiện qua hình ảnh người thiếu phụ ở Đồi Mơ) và là ngọn nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo trong anh (Phương và người đàn bà câm). Có thể nói trong tiểu thuyết của Bảo Ninh, người phụ nữ là biểu tượng cho cái Đẹp và Nhân tính, những thứ có ý nghĩa với cuộc đời Kiên như một sự cứu rỗi trong một thế giới khủng khiếp của chiến tranh.

Trong ý nghĩa đó, hình tượng người phụ nữ trong Nỗi buồn chiến tranh có một sự đồng vọng với hệ thống hình tượng những người đồng đội đã chết của Kiên. Người phụ nữ không chỉ là ánh sáng cứu rỗi cuộc đời con người mà còn là nạn nhân của sự hủy diệt. Điều đó được biểu thị tập trung trong hình tượng Phương, người phụ nữ xuyên suốt cuốn tiểu thuyết. Đối với Kiên, Phương là người đánh thức tình yêu trong anh thời tuổi trẻ, là nguồn sức mạnh chập chờn trong quãng đời chiến trận của anh nhưng đồng thời, Phương cũng là một nạn nhân của chiến tranh, bị làm nhục ngay trong những giờ khắc khởi đầu của cuộc chiến và mối tình của họ mãi mãi là một mối tình đau khổ không thành với những vết thương không thể chữa lành trong cuộc sống thời bình. Cái chết của những người lính, sự tan vỡ của tình yêu và sự chà đạp nhân phẩm người phụ nữ là những mặt biểu hiện sức mạnh hủy diệt của chiến tranh, sức mạnh chà đạp lên đời sống con người. 

Từ góc nhìn này, có thể dọi một ánh sáng khác vào mối quan hệ kỳ lạ vượt qua tuổi tác giữa cha của Kiên và Phương. Cha và dượng của Kiên thuộc về cùng một hệ thống, chính xác hơn, một kiểu nhân vật. Họ nổi bật ở sự yếu đuối và lạc loài. Họ là những hình ảnh cuối cùng buồn bã của một lớp người đã qua, một thứ chứng tích của thời thuộc địa, những “nhà thơ thời tiền chiến” (dượng của Kiên) và những hoạ sĩ thời “mỹ thuật Đông Dương” (cha của Kiên). Cắm rễ vào một thời đại “nhất khứ bất phục phản”, không thể hoà nhập vào đời sống và thời đại hiện tại (những dằn vặt về sáng tạo bộc lộ qua những cơn mê sảng của cha Kiên), họ như những cái bóng hiu hắt của quá khứ giữa thời hiện tại. Ở phương diện đó những con người này vừa có ý nghĩa như một sự đối chiếu (cái lãng mạn và một thứ tự do cá nhân của một thời đã qua và cái anh hùng của một thời đang đến, một thời bão táp và cách mạng của thế hệ Kiên), vừa nổi bật ở một khả năng tiên cảm về thời đại sắp tới. Khả năng tiên cảm ấy thể hiện ở những lời tiễn biệt buồn bã như một lời trăn trối của dượng với Kiên trước ngày anh ra trận trong ngôi nhà nhỏ bên sông Hồng. Nó thể hiện trong cái nghi thức “man rợ và dấy loạn” của cha Kiên đốt đi toàn bộ tác phẩm của mình trước khi ông từ dã cõi đời. Đối với ông, hành vi đốt tác phẩm thể hiện điểm tột cùng của một sự lạc loài của một tâm hồn trong thời đại mới đồng thời cũng là tiên cảm về mặt bên kia của một thời đại chiến tranh đang tới, một thời đại anh hùng nhưng tột cùng đe doạ đối với cái Đẹp - cái giá đau đớn của chiến tranh. Mối quan hệ và những tình cảm của cha Kiên giành cho Phương vượt ra ngoài trường ngữ nghĩa của những tình cảm thông thường của con người. Đó là sự chiêm ngưỡng Cái Đẹp (ở ý nghĩa phổ quát) của một người nghệ sĩ và sự lo âu của một người thấu thị trước tương lai về những mối đe doạ đối với Cái Đẹp. 

Trong tiểu thuyết của Bảo Ninh, hình tượng người cha nghệ sĩ của Kiên cũng có giá trị như một thứ Đạm Tiên báo trước cuộc đời anh. Đi qua chiến tranh với hành trang là những kỷ niệm “có thể là êm đềm, có thể là ác hại”, Kiên trở thành người bị cầm tù của quá khứ với một thứ “thiên mệnh” thiêng liêng ngược về quá khứ. Anh cũng phải trải qua những vật vã trong sáng tác và những đau đớn trong cuộc đời hiện tại như cha mình. Và hành động cuối cùng trong cuộc đời nghệ sĩ của anh cũng là một nghi lễ thiêu huỷ toàn bộ sản phẩm tinh thần của cuộc đời mình. Hành động đó mang một ý nghĩa hai mặt. Với Kiên, hoàn thành cuốn tiểu thuyết đồng nghĩa với việc hoàn tất một thiên chức, thiên chức “kể lại, viết lại, làm sống lại những linh hồn đã mai  một, những tình yêu đã phai tàn, bừng sáng lại những giấc mộng xưa”, thiên chức nói thay lời trăn trối của những người đã khuất, lời trăn trối về “sự nghiệp liêng đau khổ của người lính chống Mỹ”, để cho tiếng nói của “cả một thế giới, một thời đại, cả một lịch sử” không bị vùi xuống lòng sâu đất ẩm cùng với thân xác vô danh của những người lính, cho dù “bản thân việc nhận thức ra được lời trăn trối đó chẳng mang lại gì nhiều cho đời sống hiện tại”. Đối với Kiên, nếu như thiên chức viết văn đồng nghĩa với thiên chức cuộc đời thì khoảnh khắc khi anh hoàn thành tác phẩm, thách thức cuối kết của cuộc đời, cũng là thời điểm anh thức nhận được trọn vẹn nhất chân lý của cuộc đời anh cũng như những năm tháng trận mạc. Vượt qua những kinh hoàng và bạo hành của chiến tranh, vượt lên trên cái sức mạnh huỷ diệt của chiến tranh, cái còn lại, cái sức mạnh thực sự “làm nên vẻ đẹp tinh thần của cuộc kháng chiến”, cái bất tử mà chiến tranh không thể huỷ diệt nổi chính là Nhân tính và Tình người “bất diệt những tình nguời”. Chỉ khi thức nhận được chân lý bình dị nhưng cũng đau đớn đó Kiên mới có thể giải thoát khỏi gánh nặng của những ám ảnh đen tối của quá khứ. Ở đó hành vi đốt bản thảo và từ bỏ “ngọn hải đăng Hale”, căn phòng và khu phố kỷ niệm có ý nghĩa như một giải thoát  trong một sự giác ngộ thiêng liêng. Khác với những nhân vật điển hình của mỹ học phản ánh xã hội, những hình chiếu của những tấng lớp xã hội, hình tượng Kiên và người cha của anh trước hết cần được hiểu những số phận dị thường, những thực thể cô độc và cá biệt mà một thứ “thiên mệnh vô danh, thiêng liêng và cao cả, song tuyệt đối bí ẩn” đã buộc họ phải trải qua những cảnh huống đầy trái ngược của lịch sử, đúng như Kiên đã thú nhận: “Chính bởi thiên mệnh ấy mà anh có một tuổi thơ như thế, một tuổi hoa niên, một thời chiến trận như thế và tóm lại, một cuộc sống như đã sống suốt bốn chục năm qua với những đau khổ và hạnh phúc như thế. Cũng vì mang trong đời một định mệnh huyền cơ nào đấy nên anh mới có thể sống sót qua cuộc chiến tranh với những hoàn cảnh mà bình thường ra không thể có cơ hội thoát chết. Ánh sáng trong suốt và hình bóng vô hình của một thiên mệnh như thế thực ra đã từng biểu hiện trong đời anh nhưng thoảng lướt và bất chợt đến nỗi không bao giờ anh kịp hiểu, không bào giờ kịp níu giữ”. Vị thế cô độc và số phận dị thường ấy giúp họ nhìn thấy được những góc khuất của lịch sử. Cái nhìn của họ không phải là sự phản chiếu cái nhìn cộng đồng về lịch sử mà nó là một cái nhìn, một suy nghiệm cá nhân về lịch sử. Chỉ có điều, nếu như cha của Kiên sau khi đã thấu thị những đe doạ của một thời đại mới đối với cái đẹp, ông dừng lại ở bên này cánh cửa của lịch sử (cái chết về tinh thần - đốt tranh - và thể xác trước chiến tranh) thì Kiên lại đi theo một hành trình khác: dấn thân vào chiến tranh, trải nghiệm những cảnh huống kinh hoàng của chiến tranh và ra khỏi chiến tranh với gánh nặng của những kỷ niệm đau đớn. Tuy vậy, bằng một ý chí sống thấm đẫm màu sắc chủ nghĩa anh hùng, trong những ngày tháng hậu chiến, anh đã vật lộn với những ám ảnh quá khứ để đạt đến một sự thấu thị về ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh, về những gì bất diệt trong chiến tranh, về những gì mà bạo hành và cái chết không thể huỷ diệt : “vĩnh cửu những tình người”. Theo chúng tôi, đó chính là chìa khoá để “đọc sâu” (close reading) tác phẩm vào loại gây tranh cãi nhiều nhất của văn học đương đại này. Sự thức nhận của nhân vật chính trong thời điểm kết thúc cuộc hành trình tâm tưởng của anh trong những ngày hậu chiến phản ánh một dạng thức của chủ nghĩa anh hùng: đối diện với sự thật đau thương của chiến tranh để chạm đến ý nghĩa đích thực, đẹp đẽ và cao cả của cuộc chiến - một  thứ chân lý cao cả được  giác ngộ từ những trải nghiệm đau đớn[5] Ở đó, anh nhận ra cái bản chất hai mặt của chiến tranh: “Những ngày đau thương nhưng vinh quang. Những ngày bất hạnh nhưng tràn ngập tình người”. Chính vì vậy nên với Kiên trở về với những hồi ức của chiến tranh không chỉ là trở về với những ám ảnh kinh hoàng của trận mạc mà còn là cuộc hành trình trở về để được “sống trong mùa xuân của những tình cảm mà ngày nay đã biến mất, đã già cỗi hoặc biến tướng. (…) về gần với tình yêu, với tình bạn, tình đồng chí, những tình cảm đã giúp chúng ta vượt qua ngàn nỗi đau đớn của chiến tranh”. Và bay bổng trên cuộc hành hương ngược về quá khứ, trên sự thức nhận nhọc nhằn, đau đớn nhưng tuyệt đẹp đó là nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn của những con ngưòi đã đi qua và trải nghiệm chiến tranh, đã chứng kiến sức mạnh huỷ diệt của chiến tranh, chứng kiến sự trỗi dậy của cái ác trong chiến tranh, chứng kiến những gì tốt đẹp nhất bị giết chết trong chiến tranh, chứng kiến “những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, xứng đáng hơn ai hết quyền được sống trên cõi dương” bị tước đoạt sự sống trong chiến tranh. Nhưng cũng chính sự dai dẳng của nỗi buồn ấy cũng là minh chứng cho một cái  gì không thể bị huỷ diệt bởi chiến tranh: Nhân tính và Tình người. Đó chính là cảm giác mà Người trần thuật khái quát trong điểm kết thúc cuốn tiểu thuyết: “Nhưng chúng tôi cùng chia xẻ chung một nỗi buồn, nỗi buồn chiến tranh mênh mông, nối buồn cao cả, vượt lên trên mọi niềm hạnh phúc, mọi nỗi bất hạnh. Nhờ có nó, chúng tôi đã sống sót qua cuộc chiến, thoát khỏi cảnh giết chóc triền miên, thoát khỏi sự bao vây đau đớn của súng đạn, lưỡi lê, sự ám ảnh của bạo hành để trở về, mối ngưòi theo một con đường khác nhau, với cuộc đời, một cuộc đời, không chắc đã hạnh phúc hơn, (…), nhưng đó là cuộc đời tốt đẹp nhất mà chúng tôi có thể mơ ước, cuộc sống trong hoà bình”. Trong ý nghĩa cuối cùng của tác phẩm đó, có lẽ, đã đến lúc phải trả lại tên thật cho cuốn tiểu thuyết: Nỗi buồn chiến tranh

4. Cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh và con đường mới viết về chiến tranh trong thời hậu chiến

Ở điểm cuối cùng của một hành trình xuyên qua các lớp cấu trúc hình thức và biểu tượng của văn bản tiểu thuyết, có thể khằng định, trong Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã xác lập một cái nhìn mới về hiện thực lịch sử - hiện thực chiến tranh. Mới trong sự đối chiếu với văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trong chiến tranh và trước 1986. Cái mới ở đây được xác định không chỉ ở việc anh đưa vào trong tác phẩm của mình những chất liệu hiện thực chưa từng có trong văn học chiến tranh (dẫu điều này cũng có giá trị thẩm mỹ riêng) mà trước hết thể hiện ở việc anh đã tìm đến một phương pháp tiếp cận hiện thực khác với phương pháp điển hình hoá  của văn học hiện thực truyền thống. Anh không tiếp cận hiện thực thông qua những nhân vật điển hình, hoặc mang tính phản ánh, hoặc mang tính lý tưởng (trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa sẽ là sự kết hợp cả hai yếu tố này). Anh xây dựng và tô đậm tính cá biệt của số phận nhân vật. Anh rời bỏ phạm vi tồn tại xã hội và đi sâu vào chiều kích tâm lý của nhân vật. Chính vì vậy, nhân vật chính trong cuốn sách của Bảo Ninh có giá trị vừa như một số phận đặc biệt, vừa như một thứ Nhân vật - Người chứng. Dạng thức này tạo nên một khoảng cách giữa nhân vật và hiện thực lịch sử đồng thời thay đổi bản chất quá trình phản ánh hiện thực trong tác phẩm. Theo đó, nhà văn không mô tả trực tiếp hiện thực mà “ghi lại” hình chiếu của hiện thực qua tấm gương một ý thức cá nhân. Trong một tham luận tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ II (TP Hồ Chí Minh - 2004), chúng tôi xác định phương thức phản ánh hiện thực này là một phương diện của quá trình cá nhân hoá hư cấu.

Trong một cái nhìn rộng hơn, sự xác lập cái nhìn mới về hiện thực trong tiểu thuyết của Bảo Ninh tương ứng với những thay đổi về quy chế tồn tại của người nghệ sĩ và đời sống văn học và đời sống xã hội. Nỗi buồn chiến tranh được ra đời từ những thay đổi của văn học Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới mà một trong những tiến trình nòng cốt chính là khẳng định vai trò độc lập của cá nhân nghệ sĩ trong đời sống văn học nghệ thuật. Đó cũng là thời điểm cố nhà văn Nguyễn Minh Châu công bố tiểu luận Hãy viết lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ trên tuần báo Văn nghệ. Xuyên qua lớp ngôn từ gây sốc của bài tiểu luận có ý nghĩa như một lời di chúc của nhà văn quân đội đã trải qua chiến tranh giải phóng dân tộc, có thể nhận thấy một tiếng gọi khẩn thiết kêu gọi tinh thần trách nghiệm của từng cá nhân nghệ sĩ trong mối quan hệ với đời sống xã hội, theo đó, người nghệ sĩ không chỉ phản chiếu cái nhìn về hiện thực của cộng đồng mà còn có trách nghiệm, bằng lao động nghệ thuật, làm phong phú hơn cái nhìn đó bằng những sáng tạo cá nhân. Trong một cái nhìn có tính liên văn bản (intertextualité), có thể thấy kiểu Nhân vật - Người chứng, hành trình “đi tìm thời gian đã mất” của kiểu nhân vật này và môtíp chuyến đi tìm hài cốt đồng đội (có ý nghĩa như một ẩn dụ) trong tác phẩm của Bảo Ninh cũng từng được báo trước trong những tác phẩm có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong văn học chiến tranh của Nguyễn Minh Châu: Mùa trái cóc ở miền Nam và Cỏ lau. Khoan hãy nói đến những quan hệ kế thừa và ảnh hưởng thì cũng có thể khẳng định sự đồng vọng của một loạt vấn đề lớn của văn học viết về chiến tranh thời hậu chiến đồng vọng trong sáng tác của những tác giả này : thân phận con người trong chiến tranh (sự mất mát tuổi thanh xuân và sự tan vỡ của tình yêu…), sự sám hối trước những món nợ của chiến tranh, suy tư về nhân tính trong chiến tranh và sau chiến tranh. Mở rộng trường khảo sát, có thể nhận thấy sự tương đồng trong cái nhìn về mặt trái của hiện thực chiến tranh (những thất bại trên chiến trường, hình ảnh kẻ đào ngũ, những cái chết trong chiến tranh…) trong tiểu thuyết của Bảo Ninh và một trong những tác giả đầu tiên của làn sóng đổi mới văn học chiến tranh: Nguyễn Trọng Oánh và tiểu thuyết Đất trắng.  

Như vậy, với những đối chiếu vừa mang tính xã hội học văn học, vừa mang tính liên văn bản, có thể xác lập lại cuộc đối thoại giữa tác phẩm của Bảo Ninh và đời sống văn học đương thời. Cuốn tiểu thuyết của anh nằm trong một dòng chảy chung của văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh. Có những thao thức xuyên suốt sáng tác của những nhà văn viết về chiến tranh thời hậu chiến này. Là những công dân, họ viết về chiến tranh trong một trách nghiệm văn hoá : tìm đến cội nguồn lý giải sức mạnh của con người Việt Nam đi qua cái tàn khốc của chiến tranh và làm nên Chiến thắng. Là những người lính, họ viết về chiến tranh trong một món nợ tinh thần với những người đã khuất : làm sống lại hình ảnh của những “đồng  đội thân yêu và ruột thịt, vô số và vô danh, những liệt sĩ của lòng nhân, đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần cho cuộc kháng chiến”. Là những nghệ sĩ có bản lĩnh trí thức, họ đối diện với thực tại của chiến tranh để phản ánh được những mất mát thật sự đối với một dân tộc : sự tổn thương nhân tính và tình người. Điều này đặc biệt được thể hiện một cách đậm đặc trong hai bản di chúc nghệ thuật cuối cùng của Nguyễn Minh Châu: Mùa trái cóc ở miền Nam và Cỏ lau. Độ lùi thời gian sau chiến tranh và nền văn hóa hậu chiến đặt ra cho tác phẩm của họ những câu hỏi khác với văn học viết về chiến tranh trong chiến tranh. 

Riêng Bảo Ninh, anh đã đẩy những khuynh hướng nghệ thuật của những nhà văn đi trước đến một chiều kích mới. Anh quyết liệt từ bỏ hình thức tiểu thuyết hiện thực truyền thống (theo kiểu tiểu thuyết - ký sự như Đất trắng) để theo đuối tiểu thuyết tâm lý. Anh đưa vào những chiều kích hiện thực chưa từng có trong  tiểu thuyết của những nhà văn thế hệ trước: yếu tố tình dục, những “hình ảnh đen”  về chiến tranh,… Nhưng đồng thời, anh cũng sáng tạo nên một sắc thái anh hùng mới của văn học viết về chiến tranh. Trong Nỗi buồn chiến tranh, những mất mát và đau thương mà con người phải chịu đựng trở thành một chiều kích không thể quy giản. Không lẩn tránh hoặc trừu tượng hoá chiều kích đó, Bảo Ninh cụ thể hoá nó thành những dòng tâm tư khủng khiếp của những ám ảnh theo đuổi cựu chiến binh Kiên suốt quãng đời hậu chiến. Dẫu vậy, trong anh, những đau đớn của cuộc sống hiện tại còn xuất phát từ sự lạc lõng của anh trước “nền hoà bình thản nhiên thời hậu chiến”. Chính sự xung đột ấy khơi dậy trong anh cái thiên mệnh phải làm phục sinh lại quá khứ, như một cuộc đấu tranh chống lại sự lãng quên. Và cũng chính trong cuộc hành trình đau đớn để làm phát lộ những chân lý đầy nhân bản về chiến tranh và con người trong chiến tranh đó, hắt lên một ánh sáng khác vào toàn bộ quá khứ trận mạc của anh. Đối với Kiên, “sống ngược trở lại con đường của mối tình xưa, chiến đấu lại cuộc chiến đấu”, “làm sống lại những linh hồn đã mai một, những tình yêu đã phai tàn, bừng sáng lại những giấc mộng xưa” có ý nghĩa như một “con đường cứu rối của anh”. Cứu rỗi bởi lẽ quãng đời chiến trận dẫu là quãng đời khủng khiếp nhất mà anh đã phải trải qua những cũng là quãng đời đẹp đẽ nhất mà một con người có thể được sống. Trở về với quá khứ chính là trở về với tất cả những gì đẹp đẽ nhất đó, trong một thứ ánh sáng thiêng liêng. Cảm giác đó sau này sẽ được tô đậm trong một truyện ngắn tuyệt đẹp của chính Bảo Ninh về Hà Nội lúc không giờ. Đó là cảm giác của một con người tìm thấy lại được quá khứ của mình trong một giác ngộ thiêng liêng: “(…) thời gian càng nhích sâu vào trời khuya để đến với ngày mai thì chúng tôi càng về gần hơn với Hà Nội những đêm xưa, với Hà Nội trong vắt lúc không giờ. Về gần hơn với bạn bè một lứa bên trời, về gần hơn với tình yêu ban đầu, về gần hơn với tuổi thơ non dại. Sinh ra, lớn lên, rồi làm lụng, rồi chiến đấu và hy sinh cho thành phố này, thế hệ chúng tôi được hưởng phép mầu của nó, trở thành một thế hệ mãi mãi tuổi thanh xuân của một thành phố trẻ trung vĩnh hằng”.

Nếu như ký ức chiến tranh trở thành một ám ảnh đeo đẳng nhân vật trong tiểu thuyết của Bảo Ninh thì đối với anh, Nỗi buồn chiến tranh cũng trở thành một tác phẩm ám ảnh toàn bộ sự nghiệp sáng tác của anh, ít nhất cho đến thời điểm hiện tại. Sau Nỗi buồn chiến tranh, anh hầu như chỉ sáng tác những truyện ngắn. Thế giới những truyện ngắn đó giống như những mảnh vỡ của tiểu thuyết hoặc phản chiếu, hoặc soi sáng thế giới của tiểu thuyết. Một loạt chủ đề truyện ngắn của anh như những mất mát của tuổi trẻ và tình yêu trong chiến tranh (Hà Nội lúc không giờKhắc dấu mạn thuyềnRửa tay gác kiếm…), ký ức về thời thuộc địa và những con người thời thuộc địa (La MácxâyeTiếng vĩ cầm của kẻ thù,…),... giống như một vệt kéo dài vang vọng của những môtíp đã hiển hiện trong cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh. Có những chủ đề mà đối chiếu với Nỗi buồn chiến tranh, ngưòi đọc có thể tìm thấy một sự soi sáng những ý nghĩa còn ẩn dấu của cuốn tiểu thuyết (Hà Nội lúc không giờ). Có những chủ đề như một sự tiếp nối và mở rộng của Nỗi buồn chiến tranh: khát vọng hoà giải dân tộc sau chiến tranh (Lá thư từ Quý Sửu) hay rộng hơn, những suy tư về toàn bộ lịch sử dân tộc và sư hàn gắn những chia rẽ giữa con ngưòi sau những bão táp lịch sử (Thời tiết của ký ức). Một lối đọc có tính soi sáng lẫn nhau như vậy cho phép phát lộ bản chất đích thực của Nỗi buồn chiến tranh, nó không phải là một đối âm của những tượng đài văn học chiến tranh mà văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa đã tạo dựng qua hai cuộc chiến tranh lớn của lịch sử dân tộc. Nó là một sự đào sâu hiện thực chiến tranh bằng những trải nghiệm cá nhân để làm phong phú thêm cái nhìn của cộng đồng về hiện thực lịch sử. 

Bảo Ninh thuộc về một kiểu người viết đặc biệt của văn học Việt Nam đương đại : những nhà văn từng đi qua chiến tranh với tư cách người lính. Ở Việt Nam, hầu hết những thành tựu chính của văn học viết về chiến tranh đều thuộc về kiểu tác giả này. Một số người trong số họ không còn nữa, một số người vẫn tiếp tục sáng tác (Nguyễn Trí Huân, Chu Lai, Bảo Ninh …). Nhưng, bằng những thành tựu nghệ thuật không thể phủ nhận của văn học viết về chiến tranh từ 1986 đến nay, những nhà văn này đã khẳng định cho một con đường tìm tòi nghệ thuật: nhìn thẳng vào hiện thực chiến tranh, bằng những trải nghiệm và cái nhìn cá nhân, tái hiện lại cái chiều kích đau thương và bộ mặt tàn khốc không thể quy giản của chiến tranh, nói lên tiếng nói cảnh báo về những hiểm hoạ của chiến tranh để lại sau chiến tranh nhưng đồng thời, phục dựng lại hình ảnh của những con người bằng sự chịu đựng và sức mạnh anh hùng đã thực sự làm nên sức mạnh cho cuộc kháng chiến, tái sinh lại những khát vọng nuôi dưỡng cả một dân tộc trong chiến tranh. Ở điểm đó, có thể khẳng định về sức sống không thể phủ nhận của một con đường nghệ thuật. 

 

                Aix en Provence, 12/2004

                        Phạm Xuân Thạch

 

[1] Nguyễn Trãi, Cáo Bình Ngô. Dịch : Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay cường bạo

[2] A. Camus, Discours de Suède (Diễn từ ở Thuỵ Điển). Dịch : Nhà văn phục vụ những kẻ chịu đựng lịch sử

[3] Về sự đối chiếu mô hình tiểu thuyết của Bảo Ninh và một số tiểu thuyết gia Âu Châu thế kỷ XX, xin xem Đỗ Đức Hiểu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, in trong sách Thi pháp hiện đại, phần III- Phê bình truyện, NXB Hội Nhà văn, HN, 2000

[4] Về khuynh hướng tiếp cận phân tâm học các tác phẩm của Bảo Ninh và một số nhà văn đương đại khác (Nguyền Minh Châu, Dương Hướng, Võ Thị Hảo,…), có thể xem một số bài viết của nhà phê bình Đoàn Cầm Thi công bố trên website www.evan.com.vn  Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn học Việt Nam đương đại và Về nhân vật Phương, người phụ nữ Hà Nội và chủ đề chiến tranh trong tiểu Nỗi buồn chiến tranh

[5] Trong một cuộc trả lời phỏng vấn gần đây, khi được hỏi về cuộc sự xung đột giữa nhân vật trong tiểu thuyết và thực tại như “một dạng Hămlét muộn màng”, Bảo Ninh thú nhận : “Nhân vật của tôi có dằn vặt, có nội tâm nhưng chưa phải là trí thức. Họ là bộ đội, họ suy nghĩ như vậy, thế thôi”. Chúng tôi hiểu phương diện “bộ đội” (ở ý nghĩa thiêng liêng nhất của khái niệm) trong những nhân vật của Bảo Ninh, đặc biệt trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh ở phương diện đầy mầu sắc anh hùng này.

 

 

Post by: admin
01-10-2021